Osho –
Từ Dục tới Siêu tâm thức
Bài nói
cuối cùng
Các bạn đã hỏi
nhiều câu hỏi. Một bạn đã hỏi tại sao tôi lại chọn dục làm chủ đề cho bài nói của
mình. Để tôi minh hoạ. Có một cuộc họp công khai được tổ chức tại một chợ lớn ở
Bombay và một học giả đang nói về Kabir và triết lí của ông ấy. Ông ấy trích dẫn
đôi câu: Kabira khada bazarmen liye lukhathi hath; jo ghar barai aapna chale
hamare saath. “Kabir đang đứng ở giữa chợ,” ông ấy nói. “Ông ấy vẫy cây gậy và
hét to với mọi người, kêu gọi tất cả mọi người: ‘Chỉ những người có lòng dũng cảm
đốt nhà mình mới nên theo tôi.’”
Tôi quan sát thấy
rằng mọi người đều hài lòng với lời kêu gọi, và tôi phỏng đoán rằng những người
cảm thấy dễ nghe thông điệp sâu sắc và quyết liệt của Kabir phải thực sự có dũng
cảm để đốt nhà mình và bắt đầu cuộc tìm kiếm chân lí. Với những người như vậy
tôi nghĩ là tôi có thể nói thẳng, từ tận đáy lòng. Nhưng, trong thực tế, không
người nào trong họ sẵn sàng buông bỏ hay đốt nhà mình. Vấn đề là, nếu Kabir có
đó thì ông ấy sẽ không sung sướng gì với tình huống đó chút nào. Tất cả chúng
ta ở đây đều thích nghe điều Kabir nói, nhưng không ai trong những người hiện
diện khi Kabir đã nói điều đó ba trăm năm trước đây cảm thấy sung sướng về nó.
Tôi đã bị giày vò bởi cùng ảo tưởng như Kabir, như Christ. Con người là con vật
kì diệu thế - người đó tận hưởng việc nghe nói về những người đã chết, và đe doạ
giết chết những người đang sống.
Tôi có nhiệm vụ
nói ra điều gì đó về chân lí. Nhưng để nói về chân lí, cần phải phá huỷ những
cái phi chân lí mà con người đã chấp nhận làm chân lí. Nhiều nguyên tắc chúng
ta chấp nhận như chân lí, trong thực tế lại không đúng. Chừng nào những điều
phi chân lí này còn chưa được phơi bầy ra, bước đầu tiên theo hướng chân lí
không thể được tiến hành.
Tôi đã được yêu
cầu nói về “Tình yêu.” Nhưng tôi cảm thấy rằng chừng nào chúng ta còn bị vướng
víu bởi những giả thuyết không đúng nào đó về dục và thèm khát dục, thì chúng
ta sẽ chẳng bao giờ có khả năng hiểu hay đánh giá được tình yêu. Chừng nào những
niềm tin sai lầm vẫn còn bắt rễ sâu sắc, bất kì điều gì chúng ta nói về tình
yêu cũng sẽ là không đầy đủ, sẽ bị phí hoài, sẽ không đúng. Cho nên, để hội tụ
vào điều đó, tôi đã nói về thèm khát dục và dục trong buổi họp đặc biệt đó. Tôi
đã nói rằng năng lượng dục bản thân nó có thể được biến đổi thành tình yêu.
Nếu người ta
mua phân bón, bản thân nó bẩn thỉu và bốc mùi hôi hám, và chất đống nó trên phố
ngay trước nhà bạn, nó sẽ làm cho mọi sự thành khó khăn cho bất kì ai đi qua.
Nhưng nếu người đó rải phân trong vườn thế thì hạt mầm của người đó sẽ lớn lên.
Hạt mầm sẽ trở thành cây và cây sẽ cho hoa và hương thơm của chúng sẽ là lời mời
cho tất cả. Khách qua đường sẽ ngợi ca. Bạn có lẽ chưa bao giờ nghĩ về điều đó,
nhưng hương thơm của hoa chẳng là gì ngoài mùi hôi hám của phân - vươn lên từ hạt
mầm qua cây cối, mùi hôi thối của phân trở thành mùi thơm của hoa. Mùi khó ngửi
có thể được biến đổi thành hương thơm dịu ngọt.
Theo cùng cách
này, dục có thể trở thành tình yêu. Nhưng làm sao người ghét dục lại trở nên tràn
ngập với tình yêu được? Làm sao người ta có thể biến đổi được dục khi người ta
là kẻ thù của nó? Và do vậy, tôi nhấn mạnh vào sự cần thiết của việc hiểu thèm
khát dục, của việc biết về dục. Hôm nọ, tôi đã chỉ ra rằng dục phải được biến đổi.
Tôi nghĩ rằng
những người đã có khả năng cân nhắc câu hỏi về đốt nhà mình thì sẽ sung sướng
nghe bài nói ngay thẳng nào đó. Nhưng tôi đã bị lầm một cách đáng tiếc.
Khi tôi kết
thúc bài nói hôm nọ, tôi ngạc nhiên thấy rằng tất cả các quan chức, người đã ngồi
trên bục, các bạn bè người đã tổ chức cuộc họp này, đã biến mất trong thinh
không. Tôi không thấy người nào trong số họ khi tôi bước xuống lối đi giữa để
ra về. Tôi nghĩ họ có lẽ đã chạy xô về nhà trong trường hợp nhà họ cháy -
nhưng, có thể hơn, họ đã chạy về nhà để dập tắt đám cháy của riêng họ.
Thậm chí không
có cả nhà tổ chức chính hiện diện để cám ơn tôi. Bất kì cái mũ trắng nào đã có
đó, bất kì người nào có trách nhiệm đã có đó, đều không còn trên bục; họ đã chuồn
từ lâu trước khi hoàn tất bài nói. Các nhà lãnh đạo quả thực là loài rất yếu đuối.
Và mau lẹ nữa. Họ chạy mất trước khi tín đồ của họ chạy.
Nhưng một số
người dũng cảm đã tiếp cận tôi - một số đàn ông và đàn bà tâm linh: một số già,
một số trẻ. Tất cả họ đều nói tôi đã nói cho họ những điều không ai đã từng nói
trước đây. Họ nói mắt họ đã được mở ra, rằng họ cảm thấy nhiều ánh sáng bên
trong hơn. Đã có cái nhìn biết ơn trong mắt họ, trong những giọt nước mắt của
niềm vui. Tôi đã được họ yêu cầu hoàn chỉnh loạt bài nói này. Những người trung
thực đó đã sẵn sàng để hiểu cuộc sống; họ đã hỏi liệu tôi có nói thêm chi tiết
về chủ đề này không, và đây là một trong những lí do cho việc quay trở lại của
tôi tới Bombay.
Một đám đông đã
tụ tập, thậm chí khi tôi ra khỏi Bhavan, và mọi người chúc mừng tôi về điều tôi
đã nói. Thế rồi, mặc dầu những nhà lãnh đạo đã chuồn mất, tôi vẫn cảm thấy rằng
công chúng đồng tình với tôi. Và tại chỗ ấy lúc ấy tôi đã quyết định trình bầy
chi tiết đầy đủ về chủ đề này. Đó là lí do tại sao tôi đã chọn chủ đề này.
Một lí do khác
là ở chỗ những người đã chạy mất khỏi bục lại bắt đầu bảo với mọi người ở mọi
nơi rằng tôi đã nói những điều báng bổ thế, rằng tôn giáo chắc chắn là bị phá
huỷ, rằng tôi đã nói những điều sẽ làm cho mọi người thành phi tôn giáo! Và do
vậy, để đáp lại họ tôi cảm thấy tôi phải trình bầy chi tiết quan điểm của tôi.
Tôi cảm thấy họ nên hiểu rằng mọi người không định trở thành phi tôn giáo bởi
việc nghe bài nói về dục, mà rằng, ngược lại, mọi người phi tôn giáo bởi vì họ
đã không hiểu dục mãi cho tới giờ.
Dốt nát có thể
làm cho bạn thành phi tôn giáo; tri thức sẽ không bao giờ làm bạn thành phi tôn
giáo cả. Và, tôi nói, nếu tri thức có thể gây ra tính phi tôn giáo, tôi vẫn ưa
thích tri thức hơn. Nhưng, tất nhiên, đấy không phải là trường hợp này. Tri thức
là tôn giáo, và dốt nát là phi tôn giáo. Và bên cạnh đó, tôn giáo thịnh vượng
trên việc thiếu tri thức thì không phải là tôn giáo chút nào - nó là phi tôn
giáo - và chúng ta thoát khỏi nó càng sớm càng tốt. Ánh sáng mà thiếu sáng thì
không phải là ánh sáng; nó là bóng tối giả trang làm ánh sáng. Không, ánh sáng
bao giờ cũng mời ánh sáng; tri thức bao giờ cũng đón chào tri thức. Và nhớ, tôn
giáo không là gì ngoài cái tên khác cho việc tìm kiếm tri thức cao thượng, cho
việc hiểu về ánh sáng hoàn hảo. Dốt nát, bóng tối, bao giờ cũng có hại.
Nếu nhân loại
trở nên đê hèn đi, nếu toàn bộ việc hư hỏng xuất hiện, nếu nhân loại trở nên thần
kinh hoàn toàn bởi vì dốt nát của nó về dục, điều đáng trách sẽ không là ở những
người suy ngẫm và thiền về chủ đề dục, nhưng ở cánh cửa của cái gọi là người
thuyết pháp về đạo đức và tôn giáo. Họ đã cố gắng giữ con người bị nhốt trong dốt
nát trong hàng nghìn năm. Nhưng với những nhà lãnh đạo đàn áp đó, nhân loại
đáng được tự do khỏi dâm dục từ lâu. Dục là thông thường, nhưng can thiệp của dâm
dục có thể được dõi về các guru này. Cản trở này có thể chẳng bao giờ được vượt
qua chừng nào dốt nát về dục vẫn còn.
Tôi không thiên
về dốt nát tại bất kì mức độ nào của cuộc sống. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng đón
chào chân lí với bất kì giá nào, với bất kì nguy hiểm nào. Tôi cảm thấy rằng nếu
một tia sáng rải rác của chân lí có thể lan toả nhiều kích động trong mọi người
thế thì việc thảo luận toàn bộ phổ của nó là phù hợp, do vậy xoá đi câu hỏi về
việc liệu tri thức về dục có làm cho con người thành tôn giáo hay phi tôn giáo.
Đây là bối cảnh; đây là lí do tại sao tôi đã chọn chủ đề này. Không có điều
này, vấn đề đã không xuất hiện cho tôi để chọn chủ đề này; không có điều này,
tôi sẽ không nói về chủ đề này chút nào. Và do vậy, những người đã tạo ra cơ hội
này và đưa tôi tới, một cách gián tiếp, để chọn chủ đề này cho những bài giảng
đó đều xứng đáng được cám ơn. Do đó, nếu bạn có ý cám ơn tôi vì việc chọn chủ đề
này, xin đừng làm như vậy; thay vì thế, chúc mừng những người đang tuyên truyền
những điều sai về tôi. Họ đã buộc tôi phải chọn kĩ càng chủ đề này.
Bây giờ đến bản
thân chủ đề này.
Một người bạn
đã hỏi, “Nếu biến đổi của dục là thành tình yêu, thế thì thầy có ngụ ý rằng
tình yêu của bà mẹ với đứa con mình cũng là bởi vì dục không?” Người khác cũng
hỏi câu hỏi tương tự.
Sẽ có ích để hiểu
điều này. Nếu bạn đã nghe một cách chăm chú, bạn sẽ nhớ lời tôi bảo bạn rằng có
một chiều sâu trong sự tồn tại của dục, một chiều sâu mà người thường không đạt
tới. Có ba mức độ dục và tôi muốn nói về chúng bây giờ.
Mức độ thứ nhất
là mức độ thô. Chẳng hạn, một người đi tới gái mãi dâm. Kinh nghiệm anh ta thu
được ở đó không thể sâu sắc hơn mức vật lí. Gái mãi dâm có thể bán thân thể
mình nhưng không thể bán trái tim cô ta được, và, tất nhiên, không có cách nào
để bán linh hồn cả.
Tại mức độ này,
thân thể gặp nhau - như trong hãm hiếp. Trong hãm hiếp không có gặp gỡ của trái
tim hay linh hồn; hãm hiếp xảy ra chỉ trên mức độ vật lí. Không có cách nào để
hãm hiếp linh hồn; kinh nghiệm về hãm hiếp thuần tuý là vật lí.
Kinh nghiệm chủ
yếu về dục là trên mức độ sinh lí, nhưng những người dừng lại ở đó thì không
bao giờ đạt tới kinh nghiệm đầy đủ về dục. Họ có thể không bao giờ biết tới những
chiều sâu tôi đã nói về chúng. Những ngày này, phần lớn mọi người đều dừng lại
tại mức độ vật lí.
Trong mối liên
hệ này, điều quan trọng cần biết là trong những quốc gia mà hôn nhân xẩy ra
không có tình yêu, dục tù đọng tại mức độ vật lí. Nó không bao giờ có thể tiến
bộ vượt ra ngoài điều đó. Những hôn nhân này có thể là của hai thân thể nhưng
không bao giờ của hai linh hồn. Tình yêu chỉ có thể tồn tại giữa hai linh hồn.
Hôn nhân có thể có ý nghĩa sâu sắc nếu nó xảy ra vì tình yêu, nhưng hôn nhân xảy
ra bởi vì những tính toán của các học giả và nhà chiêm tinh, hay từ những cân
nhắc về đẳng cấp hay tiền bạc, thì không bao giờ có thể đi sâu hơn tầng vật lí.
Có một ưu điểm
cho hệ thống này, theo nghĩa rằng thân thể ổn định hơn tâm trí, và do vậy trong
xã hội mà trong đó thân thể là cơ sở cho hôn nhân, hôn nhân sẽ ổn định hơn.
Chúng sẽ kéo dài lâu hơn bởi vì thân thể không phải là không ổn định, bởi vì
thân thể gần như là nhân tố hằng và thay đổi đi vào rất, rất chậm, gần như
không cản nhận nổi về nó. Thân thể là trong trạng thái không đổi, và những xã hội
đó mà coi điều quan trọng là ổn định hoá thể chế hôn nhân, để duy trì chế độ một
vợ một chồng, để không có khả năng thay đổi nào, đã phải huỷ bỏ đi tình yêu; họ
phải chùi sạch tình yêu đi. Bởi vì trái tim là chỗ trú cho tình yêu và trái tim
là không ổn định, nên li dị là điều không tránh khỏi trong những xã hội mà hôn
nhân được dựa trên tình yêu. Không bao giờ có thể có hôn nhân ổn định trong những
xã hội đó bởi vì tình yêu là linh động. Trái tim là thuỷ ngân; thân thể là ổn định,
không đổi.
Nếu có hòn đá
trong sân nhà bạn, nó sẽ ở cùng vị trí trong buổi tối cũng như nó ở trong buổi
sáng, nhưng đoá hoa nở vào buổi sáng và đến tối nó rũ xuống, rụng xuống đất. Đá
là vật vô sinh: dù nó là bất kì cái gì vào buổi sáng thì nó cũng sẽ vẫn là cái
đó vào buổi tối. Hôn nhân dựa trên mức độ vật lí sẽ đem lại tính ổn định, nhưng
nó sẽ không khác như ổn định của tảng đá. Loại hôn nhân này là mối quan tâm của
xã hội, nhưng bất lợi cho cá nhân.
Trong những hôn
nhân như vậy, dục giữa chồng và vợ không chạm tới các cõi giới sâu sắc hơn; nó
đơn thuần trở thành thường lệ máy móc. Hành động này đơn giản được lặp lại thường
xuyên và trở thành nhạt nhẽo; chẳng cái gì nhiều hơn xảy ra, và những người
tham dự trở nên ngày càng đờ đẫn. Có rất ít khác biệt giữa việc đi tới gái mãi
dâm và trong hôn nhân không tình yêu. Bạn mua gái mãi dâm trong một đêm, trong
khi bạn mua người vợ trong cả đời mình; đây là khác nhau duy nhất. Khi không có
tình yêu thì mua bán được thực hiện - dù là bạn thuê một người phụ nữ một đêm
hay thu xếp cho cả đời. Tất nhiên, bởi vì kết giao hàng ngày mà một loại quan hệ
đi vào hiện hữu - và chúng ta gọi nó là tình yêu. Đây không phải là tình yêu;
tình yêu là cái gì đó khác. Nhưng hôn nhân này đơn giản là của thân thể, và do
vậy mối quan hệ chẳng bao giờ có thể đi sâu hơn mức vật lí. Không sách hướng dẫn
hay kinh sách nào đã được viết ra về tình yêu, từ Vatsyayana tới Koka Pundit, đều
đi sâu hơn vào mức vật lí.
Mức độ khác là
tâm lí - của tâm trí, của trái tim. Hôn nhân của các đôi yêu nhau và rồi cưới
nhau đi sâu hơn chút ít, chút ít sâu hơn hôn nhân ở mức vật lí. Họ đạt tới trái
tim; họ đạt tới chiều sâu tâm lí, nhưng bởi vì chế độ một vợ một chồng nên họ
trở lại mức độ vật lí hàng ngày. Thể chế của hôn nhân đã phát triển ở phương
Tây trong hai trăm năm qua là dựa trên mức độ này. Và bởi vì điều này, xã hội của
họ bị rời ra và đồi bại.
Lí do cho điều
này là ở chỗ bạn không thể dựa trên tâm trí được. Hôm nay tâm trí ham muốn điều
này; ngày mai nó sẽ đòi hỏi cái gì đó khác. Nó muốn thứ này vào buổi sáng và
cái gì đó khác vào buổi tối. Điều nó cảm thấy bây giờ sẽ hoàn toàn khác với cái
nó đã cảm thấy chỉ vài khoảnh khắc trước.
Bạn có thể đã
nghe nói rằng Huân tước Byron, trước khi ông ấy cuối cùng lấy vợ, đã từng thân
mật với ít nhất sáu mươi đến bẩy mươi phụ nữ. Nhưng thậm chí khi ông ấy đi tới
nhà thờ sau đám cưới, tay trong tay với cô dâu mới, ông ấy thấy một phụ nữ đẹp
đi ngang qua. Ông ấy đã sững sờ bởi sắc đẹp của cô ấy, và trong một chốc ông ấy
quên mất người vợ mới, đám cưới mới đây của ông ấy. Nhưng ông ấy cũng phải là
người rất trung thực, bởi vì, khi ông ấy vào xe cùng với cô dâu, ông ấy đã nói
với cô ấy, “Em có chú ý không? Một điều lạ vừa mới xảy ra ngay đây. Hôm qua,
trước khi chúng ta cưới nhau, anh đã lo nghĩ là liệu anh có thực sự có khả năng
giữ được em hay không - em đã là người phụ nữ duy nhất trong tâm trí anh -
nhưng bây giờ, khi anh thực tế đã cưới em, anh mới thấy một phụ nữ xinh bên đường
khi chúng ta ra khỏi cầu thang nhà thờ, và anh đã quên mất em trong một chốc:
tâm trí anh bắt đầu đuổi theo người phụ nữ đó; một ý nghĩ thoáng qua tâm trí
anh, ‘Anh tự hỏi liệu anh có thể có được người phụ nữ ấy không?’”
Tâm trí rất hay
thay đổi, và do vậy các xã hội muốn ổn định cuộc sống gia đình không cho phép
hôn nhân được đạt tới bình diện tâm lí, họ cố gắng để dừng hôn nhân tại mức độ
vật lí. Họ nói, “Lấy nhau, nhưng không vì tình. Nếu bạn trưởng thành trong tình
yêu sau hôn nhân, thì tốt; nếu không, để mọi thứ như chúng có thể thế.”
Tính ổn định là
có thể trên mức độ vật lí nhưng trên bình diện tâm lí điều đó rất khó. Kinh
nghiệm dục là sâu sắc hơn và tinh tế hơn trên bình diện tinh thần, và do đó
kinh nghiệm ở phương Tây đã sâu sắc hơn ở phương Đông. Các nhà tâm lí học
phương Tây, từ Freud tới Jung, đã viết về giai đoạn thứ hai này của dục, về mức
độ tâm lí. Nhưng dục tôi đang nói tới lại ở mức thứ ba, mà mãi cho tới nay, vẫn
còn chưa được hiểu ở cả phương Đông lẫn phương Tây. Mức độ thứ ba đó của dục là
mức tâm linh.
Bởi vì thân thể
có quán tính nên có một loại ổn định ở mức vật lí. Cũng có một loại ổn định ở mức
tâm linh, bởi vì không có thay đổi tại mức độ đó: mọi thứ đều bình thản ở đó; tại
đó, nó là vĩnh hằng. Giữa hai giai đoạn này tồn tại mức độ tâm lí. Nó là không ổn
định, giống như kí ức.
Kinh nghiệm của
phương Tây là trên mức độ này, và do vậy hôn nhân tan vỡ và gia đình tan rã.
Hôn nhân được sinh ra từ gặp gỡ của tâm trí không thể tạo ra tình thế gia đình ổn
định, và bây giờ khuynh hướng ở phương Tây là nhằm vào li dị. Li dị bây giờ xuất
hiện quãng hai năm, nhưng điều này cũng có thể trở thành hai giờ! Tâm trí người
ta có thể thay đổi thậm chí trong một giờ! Xã hội ở phương Tây bị rời ra. So
sánh với điều đó, xã hội phương Đông ổn định hơn, nhưng phương Đông vẫn không
thể nào thăm dò được những chiều sâu tinh tế và cao thượng của dục.
Đàn ông và đàn
bà, người có thể gặp gỡ trên mức độ tâm linh, người có thể hợp nhất về tâm linh
- thậm chí một lần - cảm thấy họ đã hợp nhất cho vô hạn kiếp sống sắp tới. Có
linh động sâu sắc; cực lạc vô thời gian và thuần khiết là của hồi môn đám cưới.
Dục tôi đang
nói tới là dục tâm linh, kinh nghiệm thiêng liêng. Tôi ham muốn khuynh hướng
tâm linh về dục.
Và nếu bạn hiểu
điều tôi đang nói, bạn sẽ nhận ra rằng tình yêu của mẹ với con trai cũng là một
phần của dục tâm linh. Bạn sẽ nói rằng đây là phát biểu ngược đời. Bạn sẽ hỏi
có thể có mối quan hệ dục nào giữa mẹ và con trai? Để hiểu điều này đầy đủ,
chúng ta phải xem xét lại nhiều khía cạnh khác của dục và tương tác của nó
trong các mối quan hệ giữa chồng, vợ và con.
Như tôi đã bảo
với bạn, đàn ông và đàn bà chỉ gặp gỡ có một chốc. Linh hồn của họ cũng gặp gỡ
nhưng chỉ một khoảnh khắc, trong khi đứa trẻ vẫn còn trong bụng mẹ những chín
tháng. Trong thời kì này sự tồn tại của nó là một với sự tồn tại của người mẹ.
Chồng cũng gặp vợ tại mức độ này - nơi chỉ có sự tồn tại, nơi chỉ có sự hiện hữu
- nhưng nó chỉ là trong một khoảnh khắc và thế rồi họ phân tách. Chồng và vợ gặp
nhau trong một khoảnh khắc và thế rồi nhảy ra xa, và do vậy thân mật mà người mẹ
có với đứa con mình là không thể có với chồng mình; nó không thể thế được.
Đứa trẻ trong bụng
mẹ thở hơi thở của mẹ, tim nó đập qua tim của mẹ. Đứa trẻ là một với máu và cuộc
sống của người mẹ: nó chưa có sự tồn tại cá nhân; nó vẫn là một phần của người
mẹ. Không đàn ông nào có thể thoả mãn người phụ nữ nhiều như đứa con có thể thoả
mãn; không người chồng nào có thể cho vợ mình cái cảm giác sâu sắc về sự thân
thiết mà đứa con có thể cho cô ấy. Cũng vậy, sự trưởng thành đầy đủ của phụ nữ
là không đầy đủ chừng nào cô ấy chưa trở thành người mẹ. Chừng nào cô ấy còn
chưa đạt tới tình mẹ, toả sáng đầy đủ của nhân cách phụ nữ, nở hoa tối đa của
cái đẹp của cô ấy là không thể có được. Phụ nữ không bao giờ có thể bằng lòng
hoàn toàn chừng nào cô ấy còn chưa trở thành người mẹ, chừng nào cô ấy còn chưa
biết tới mối quan hệ sâu sắc, tâm linh vẫn tồn tại giữa mẹ và con.
Và cùng với điều
này, nhớ trong đầu rằng ngay khi phụ nữ trở thành người mẹ thì mối quan tâm của
cô ấy trong dục tự động tàn đi. Cô ấy đã uống tình mẹ sâu sắc; trong chín tháng
cô ấy đã cùng tồn tại với một cuộc sống mới đang đập, và bây giờ cô ấy hầu như
không có hấp dẫn tới dục. Vào lúc người chồng bối rối bởi lãnh đạm của cô ấy, bởi
vì việc trở thành người bố của anh ta chẳng thay đổi gì thái độ của anh ta đối
với dục theo bất kì cách nào; anh ta không có mối quan hệ sâu sắc với quá trình
sinh con. Với cuộc sống mới được sinh ra, người bố không có cảm giác về cái một
tâm linh. Việc trở thành mẹ đem lại sự thay đổi cơ bản trong phụ nữ, nhưng tính
chất bố đơn giản là một thể chế xã hội. Đứa trẻ có thể lớn lên không cần bố,
nhưng nó có mối quan hệ bắt rễ sâu sắc với người mẹ.
Một loại khoẻ mạnh
tâm linh mới trút đầy người phụ nữ sau việc sinh con. Nếu bạn nhìn vào người phụ
nữ đã trở thành người mẹ và vào người chưa trở thành mẹ, bạn sẽ cảm thấy khác
biệt trong nhân cách của họ, theo cảm giác thoải mái họ phát ra. Trong người mẹ
bạn sẽ thấy nhiệt tình, bình thản - loại bình thản bạn thấy trong dòng sông đã
đạt tới đồng bằng - nhưng trong người chưa trở thành mẹ bạn sẽ cảm thấy một loại
linh hoạt sùng sục giống như con suối vẫn chảy qua núi non - sôi ùng ục, ầm ĩ,
tràn bờ, xô về phía đồng bằng. Phụ nữ trở nên tĩnh lặng, bình thản và thanh
bình bên trong sau khi cô ấy trở thành mẹ.
Trong mối liên
quan này tôi cũng muốn phát biểu rằng những phụ nữ, người buồn phiền với đam mê
dục, như thông thường ở phương Tây ngày nay, là những phụ nữ không muốn trở
thành mẹ. Sau thời kì làm mẹ, sự hấp dẫn của phụ nữ về dục bỗng nhiên giảm đi,
và phụ nữ phương Tây người từ chối trở thành mẹ thì đang làm như vậy bởi vì cô ấy
biết rằng ngay khi cô ấy trở thành mẹ cô ấy sẽ mất mối quan tâm vào dục. Cô ấy ủng
hộ cho say mê trong dục bằng việc không trở thành mẹ.
Các chính phủ của
nhiều nước phương Tây đang quan ngại về điều này. Nếu điều này còn tiếp tục, điều
gì sẽ xảy ra cho dân số của họ? Phương Đông lo nghĩ về việc tăng dân số, nhưng
một số quốc gia phương Tây lại sợ việc giảm dân số. Chẳng thể làm gì được nếu
phụ nữ quyết định không trở thành mẹ bởi vì họ biết họ sẽ mất mối quan tâm tới
dục. Chương trình kế hoạch hoá gia đình có thể phải được thực hiện theo luật,
nhưng không luật nào có thể buộc phụ nữ trở thành mẹ. Vấn đề này của các nước
phương Tây còn rắc rối hơn là vấn đề bùng nổ dân số của chúng ta. Chúng ta có
thể dừng việc tăng dân số bằng việc bắt buộc, hay bằng pháp luật. Nhưng các nước
phương Tây không thể tăng dân số của họ bằng luật pháp được. Trong hai trăm năm
nữa vấn đề này sẽ phát triển thành tỉ lệ khổng lồ ở phương Tây, và dân số trong
các nước phương Đông, tăng lên theo cách nhảy vọt, có thể đưa các nước này tới
việc chi phối cả thế giới. Đồng thời, với việc chuyển thời gian, nhân lực
phương Tây sẽ giảm đi. Họ sẽ phải làm cho phụ nữ đồng ý trở thành mẹ lần nữa.
Một số các nhà
tâm lí của họ đã bắt đầu để lộ ra sự thiên về tảo hôn. Người phụ nữ vào độ chín
muồi không định quan tâm tới việc trở thành người mẹ - cô ấy sẽ quan tâm nhiều
hơn tới thú vui dục - cho nên các nhà tâm lí của họ đang khuyên mọi người tảo
hôn. Thế thì, trong những trường hợp đó, phụ nữ sẽ không có bất kì ý tưởng nào
khác trước khi họ trở thành người mẹ. Đây cũng là một trong những lí do đằng
sau việc tảo hôn ở phương Đông; họ biết cô gái sẽ không muốn cưới và trở thành
mẹ khi cô ấy đã trở thành người lớn, khi cô ấy trở nên có ý thức về dục, khi cô
ấy đã phát triển nếm trải về nó. Tâm tính này, hấp dẫn mênh mông này về dục, tồn
tại trong phụ nữ cho tới khi họ biết điều họ sẽ đạt tới bởi việc trở thành người
mẹ. Nhưng điều này họ có thể hiểu được chỉ sau khi đạt tới tình mẹ. Không có
cách nào để có ý niệm mơ hồ về nó trước khi thực tế trở thành mẹ.
Tại sao phụ nữ
vừa lòng thế sau khi cô ấy đã trở thành người mẹ? Đấy là vì cô ấy đã có kinh
nghiệm thiêng liêng, không phá vỡ nổi về dục tâm linh với đứa con mình. Và
chính bởi vì điều này mới có thân thiết mạnh mẽ thế giữa mẹ và con. Người phụ nữ
sẽ hi sinh cuộc sống của mình cho con, nhưng không thể nào hình dung nổi việc lấy
đi cuộc sống của đứa con mình. Người vợ có thể giết chồng - điều đó xảy ra thường
xuyên - và thậm chí nếu cô ấy không thực sự làm điều đó, cô ấy có thể tạo ra
hoàn cảnh tại nhà mà rốt cuộc cũng là cùng việc đó. Nhưng đối với đứa con mình,
cô ấy không bao giờ có thể thậm chí nghĩ về việc như vậy. Đấy là vì mối quan hệ
với đứa con mới rất sâu sắc thế, rất thân thiết thế.
Theo cùng một mạch,
tôi muốn nói rằng khi người phụ nữ phát triển mối quan hệ sâu sắc với chồng
mình, người chồng trở thành con cô ấy. Thế thì anh ta không còn là chồng chút
nào nữa.
Có nhiều đàn
ông và đàn bà ngồi đây tại buổi tụ tập này. Tôi muốn hỏi các đàn ông hiện ở đây
liệu họ có hành xử hệt như đưa trẻ nhỏ làm với mẹ chúng không khi họ đang trong
tâm trạng tình yêu toàn bộ hướng tới vợ mình. Bạn có biết tại sao tay đàn ông lại
vô ý thức đưa về vú người đàn bà không? Đấy chính là tay của đứa trẻ nhỏ mò tới
vú mẹ. Ngay khi đàn ông bị chinh phục bởi tình yêu của đàn bà, tay anh ta tự động
lần tới vú cô ấy. Tại sao? Vú có mối quan hệ gì với tình yêu? Hay với dục? Dục
không có quan hệ thực với vú chút nào, nhưng đứa trẻ có mối liên hệ sâu sắc với
bầu vú mẹ. Từ tuổi thơ, nó đã đắm chìm trong nhận biết rằng chỗ móc nối của nó
là bầu vú, đường huyết mạch. Khi đàn ông tràn ngập với tình yêu sâu sắc, anh ta
trở thành đứa con!
Và tay người phụ
nữ để đi đâu? Tay cô ấy đưa lên đầu người đàn ông; ngón tay cô ấy bắt đầu vuốt
ve tóc anh ta: đây là kí ức về đứa con cô ấy; cô ấy đang vuốt ve tóc con mình.
Đó là lí do tại sao, nếu tình yêu nở hoa đầy đủ ở mức độ tâm linh, người chồng
trở thành đứa con; đó là lí do tại sao người chồng phải trở thành đứa con. Thế
thì người ta biết rằng người ta đã đạt tới tầng thứ ba của dục, mức tâm linh.
Nhưng chúng ta hoàn toàn dốt nát về mối quan hệ này.
Mối quan hệ giữa
chồng và vợ là sự bắt đầu của cuộc hành trình và không kết thúc. Và nhớ, bởi vì
nó là cuộc hành trình, nên chồng và vợ bao giờ cũng trong trạng thái căng thẳng.
Cuộc hành trình bao giờ cũng khó chịu; an bình chỉ tìm thấy ở nơi đến. Chồng và
vợ không bao giờ bình tĩnh bởi vì họ bao giờ cũng di chuyển, bao giờ cũng trên
đường - và phần lớn mọi người đều tàn lụi trên con đường, chẳng bao giờ đạt tới
đích cả. Bởi vì điều này, nên bao giờ cũng có trạng thái xung đột giữa chồng và
vợ; có tranh chấp suốt ngày đêm. Và đây là điều chúng ta gọi là “tình yêu.”
Điều không may
là cả chồng lẫn vợ đều không hiểu nguyên nhân thực của sự căng thẳng, của xung
đột. Mỗi người đều nghĩ họ đã chọn đôi lầm. Chồng nghĩ mọi thứ đáng sẽ tốt hơn
nếu anh ta cưới người đàn bà khác, còn vợ nghĩ mọi thứ chắc có lẽ đã tốt nếu cô
ấy cưới người đàn ông khác. Tôi muốn bảo bạn rằng đây là kinh nghiệm của mọi
đôi trên thế giới này. Nếu như bạn được cho cơ hội để đổi chồng vợ mình, tình
huống chắc cũng không thay đổi chút gì. Nó sẽ vẫn cũng như việc đổi vai khi
khênh quan tài ra nghĩa địa vậy: bạn sẽ cảm thấy nhẹ vai trong một chút, nhưng
thế rồi bạn sẽ để ý rằng trọng lượng lần nữa lại trở thành như cũ. Kinh nghiệm ở
phương Tây, nơi li dị cực kì phát triển, là ở chỗ vợ mới, trong một thời gian rất
ngắn, lại chứng tỏ giống hệt như vợ cũ - và trong vòng nửa tháng, chồng mới
cũng tỏ ra là như chồng cũ thôi. Nguyên nhân không tìm được ở trên bề mặt, mà ở
sâu bên dưới. Nguyên nhân chẳng có liên quan gì tới cá nhân, với đàn ông hay
đàn bà; nguyên nhân là ở chỗ hôn nhân là cuộc hành trình, quá trình. Hôn nhân
không phải là mục tiêu chẳng phải là mục đích. Mục đích sẽ chỉ được đạt tới khi
người phụ nữ trở thành mẹ và người đàn ông trở thành con.
Một người bạn
đã hỏi điều gì đó trong mối quan hệ với câu hỏi này. Anh ấy nói rằng có thể hỏi
tôi về Thượng đế, nhưng không về dục. Anh ấy nói rằng anh ấy và một số bạn bè
anh ấy đã tới đây để nghe về Thượng đế và do đó tôi nên nói về Thượng đế. Có lẽ
họ không nhận biết rằng thật là vô ích mà đi hỏi ai đó về Thượng đế khi họ thậm
chí không xem xét tới thẩm quyền về dục. Bạn có hỏi ai đó về đỉnh vàng son mà
người đó lại chẳng biết gì về nền cơ sở trước nhất không? Nếu điều tôi phải nói
về dục là không chấp nhận được với bạn, thế thì bạn không nên hỏi tôi về Thượng
đế. Nếu tôi cho rằng nói về bước đầu tiên là không thích hợp, thế thì làm sao
tôi có khả năng nói về bước cuối cùng?
Tâm lí đằng sau
câu hỏi này là ở chỗ kama và Rama, sự thèm khát dục và Trời, mãi cho tới nay,
đã được coi là kẻ thù của nhau. Mãi cho tới nay, người ta cứ coi rằng những người
tìm kiếm tôn giáo không thể có liên quan gì tới dục, và rằng những người đào
sâu vào dục thì chẳng thể có gì chung với tính chất tâm linh cả. Cả hai đều ảo
tưởng. Cuộc hành trình tới kama cũng là cuộc hành trình tới Rama. Cuộc hành
trình tới thèm khát dục cũng là cuộc hành trình tới ánh sáng. Sự hấp dẫn cực kì
về dục cũng là việc tìm kiếm sự thăng hoa.
Bởi vì con người
đã bị bao bọc hoàn toàn trong dục nên người đó chẳng bao giờ cảm thấy cuộc hành
trình của mình được hoàn tất. Chừng nào mà Rama còn chưa đạt tới được, chừng
nào mà thăng hoa còn chưa được đạt tới, tìm kiếm của người đó sẽ không bao giờ
dừng cả. Và cuộc truy tìm của những người chỉ trích kama và bắt đầu lên đường đạt
tới Rama thì không phải là tìm kiếm đích thực về Thượng đế; nó không là gì khác
ngoài khuynh hướng thoát li thực tế nhân danh Rama. Họ che giấu bản thân mình đằng
sau Rama để thoát li khỏi kama. Điều này là vì họ sợ đến chết về dục, bởi vì
các kiếp sống của họ ở trong trạng thái thường xuyên khuấy động về dục. Họ tìm
kiếm nơi trú ngụ trong việc nhẩm to tên của Rama, “Rama, Rama, Rama”, để cho họ
có thể quên đi kama, về dục.
Bất kì khi nào
bạn quan sát một người tụng tên Rama, nhìn vào người ấy thật gần: đằng sau việc
lẩm nhẩm Rama sẽ là tiếng vọng của kama; nhận biết về dục đang hiện diện ở đấy.
Nếu một phụ nữ đi vào trong tầm nhìn thì họ sẽ bắt đầu nói câu tràng hạt của
mình - “Rama, Rama, Rama,” - xoay nhanh chuỗi tràng hạt đó với tốc độ lớn và tụng
tên Rama đến tận đỉnh phổi. Kama bên trong thúc đẩy họ từ bên trong, và những kẻ
đào thoát này cố gắng bỏ qua nó, dìm nó xuống, ngăn chặn nó bằng việc tụng tên
Rama. Nếu thủ thuật đơn giản ấy có thể thay đổi được cuộc sống người ta, thì thế
giới này đã thay đổi tốt hơn từ lâu lắm rồi. Tôn giáo không dễ dàng đạt tới như
thế.
Điều bắt buộc
là phải biết kama nếu bạn muốn đạt tới Rama, nếu bạn muốn đạt tới điều Cao thượng.
Tại sao? Ta hãy lấy thí dụ về một người muốn tới Calcutta từ Bombay. Trước hết,
người đó thu lấy thông tin về Calcutta - nó ở đâu, nó ở hướng nào - nhưng nếu
ngưới đó thậm chí không biết Bombay ở đâu, nó nằm đâu trong mối quan hệ với
Calcutta, thế thì làm sao người đó có thể thành công trong sứ mệnh của mình? Để
đạt tới Calcutta từ Bombay, điều tuyệt đối cần thiết là phải biết Bombay ở đâu
trước nhất. Nếu tôi không nhận biết Bombay ở đâu, thì tất cả mọi thông tin về
cách đến Calcutta từ Bombay đều vô giá trị. Sau rốt, tôi phải bắt đầu từ
Bombay; cuộc hành trình của tôi là khởi đầu từ Bombay. Điểm bắt đầu bao giờ
cũng tới trước. Cái đích bao giờ cũng tới sau.
Bạn đang đứng ở
đâu bây giờ?
Bạn nói bạn
khát khao làm cuộc hành trình tới Rama? Tốt.
Bạn nói bạn ham
muốn đạt tới Thượng đế? Rất tốt.
Nhưng bạn đang
đứng ở đâu bây giờ?
Bây giờ bạn
đang bị mắc kẹt trong thèm khát dục; bây giờ bạn đang bị mắc kẹt trong dục - và
chính từ quan điểm này, từ nơi bạn đang ở bây giờ, bạn phải tiến bước đầu tiên
đi lên. Điều bắt buộc là bạn nhận ra nơi bạn đang ở bây giờ. Bằng việc chấp nhận
sự kiện đơn giản này, bằng việc hiểu thực tại mắc kẹt này, bạn cũng có thể thấy
khả năng cho tương lai. Để biết cái bạn có thể đạt tới, điều quan trọng là biết
bạn đang là gì.
Để đạt tới bước
cuối cùng, điều cần thiết là đi bước thứ nhất - bởi vì bước thứ nhất là để lát
đường cho bước thứ hai và, chung cuộc, cho bước cuối cùng của cuộc hành trình.
Nếu bước thứ nhất mà bước theo hướng sai, thì bạn có thể chẳng bao giờ đạt tới
cái đích đã chủ định của mình; thay vì thế bạn có thể kết thúc trong vùng hoang
dã. Và do vậy, nếu bạn muốn đạt tới điều tối thượng, thì điều quan trọng cho bạn
là hiểu kama hơn là hiểu Rama. Bạn không thể đạt tới Thượng đế mà không trước hết
hiểu dục.
Tôi cũng được
thông báo qua một bức thư rằng ý kiến của Freud về dục có thể có giá trị và chấp
nhận được, nhưng họ hỏi ý kiến của tôi có thể được coi là đúng và chân thành
không.
Làm sao bạn có
thể quyết định được liệu tôi là người trung thực và chân thành hay không? Trong
mối nối này, bất kì cái gì tôi nói, nó đều sẽ không quyết định được bởi vì bản
thân tôi là chủ đề cho sự xem xét. Nếu tôi nói tôi trung thực thì điều đó là vô
nghĩa. Cũng vô nghĩa nốt nếu tôi nói tôi không trung thực, bởi vì chính chủ đề
đang tranh luận là liệu người đưa ra những phát biểu này có là người trung thực
hay không. Cho nên bất kì điều gì tôi nói trong ngữ cảnh này đều sẽ vô nghĩa;
nó sẽ vô ích. Tôi nói, các kinh nghiệm với dục và tìm ra cho bạn liệu tôi là
trung thực hay không. Bạn sẽ đi tới hiểu biết chân lí trong phát biểu của tôi
khi bạn đạt tới kinh nghiệm cho chính bạn. Không có cách nào khác.
Chẳng hạn, nếu
tôi nói với bạn về kĩ thuật bơi nào đó, bạn có thể hoài nghi liệu phương pháp của
tôi có khả thi hay không. Lời đáp của tôi cho điều đó sẽ là yêu cầu bạn tới chỗ
bạn có thể lội vào dòng sông. Nếu lời khuyên của tôi có ích trong việc giúp bạn
bơi qua sông, thế thì bạn sẽ biết rằng điều tôi đã nói chẳng vô ích cũng không
phải là không chân thành.
Còn việc liên
quan tới Freud, tôi muốn giải thích cho người bạn đặc biệt này rằng hoàn toàn
có thể là Freud không nhận biết về điều tôi đang nói cho các bạn ở đây. Freud
là một trong vài người nhìn xa đã hướng dẫn nhân loại đi theo hướng giải phóng
dục, nhưng ông ấy không có bất kì ý tưởng nào rằng dục tâm linh tồn tại. Tri thức
mà Freud đã hệ thống hoá là tri thức về dục ốm yếu; nghiên cứu của ông ấy là với
bệnh hoạn. Freud là một loại bác sĩ và những phát hiện của ông ấy đã được dùng
như cách trị liệu, phân phát nhỏ giọt cho người ốm. Freud đã không nghiên cứu dục
bình thường, lành mạnh. Ông ấy là một học giả nghiên cứu giải quyết các căn bệnh,
sự truỵ lạc, và tâm trí ông ấy chủ yếu hướng về trị liệu, chữa chạy.
Do đó, nếu bạn
nhất quyết xác nhận tính chân lí của điều tôi nói, thì bạn sẽ phải quay sang
triết lí của Mật tông. Mật tông đã tiến hành sớm sủa những cố gắng để tâm linh
hoá dục, và, mặc dầu chúng ta cấm việc suy nghĩ về Mật tông từ hàng nghìn năm
trước đây, những tượng đài ở Khajuraho và đền đài ở Puri và Konarak vẫn là những
vật chứng sống. Bạn đã bao giờ ở Khajuraho chưa? Bạn đã bao giờ thấy những hình
ảnh ở đó chưa? Nếu rồi, thế thì bạn phải đã kinh nghiệm hai hiện tượng kì diệu.
Thứ nhất, thậm chí sau khi thấy những hình ảnh các đôi trần truồng đang giao hợp,
bạn sẽ không cảm thấy bất kì cảm giác thô bỉ tục tĩu nào; bạn sẽ không thấy bấy
kì cái gì xấu hay tồi trong những hình ảnh đàn ông đàn bà trần truồng giao hợp.
Và điều thứ hai là ở chỗ bạn sẽ kinh nghiệm cảm giác an bình. Cảm giác về sự
thiêng liêng sẽ bao bọc lấy bạn. Phản ứng của bạn sẽ làm bạn ngạc nhiên. Những
người thấy đã tạo ra các bức tượng này chính là những người đã thấy và biết về
dục tâm linh một cách mật thiết.
Nếu bạn thấy một
người đang bị cuốn hút trong dục, nếu bạn nhìn vào khuôn mặt người đó và vào mắt
người đó, thì người đó sẽ có vẻ xấu xí, đáng sợ, thú vật; bạn sẽ thấy sự thèm
khát rối loạn và dữ tợn ở đó. Khi người phụ nữ thấy người đàn ông tiến lại gần
cô ấy, và anh ta tràn đầy những thèm khát, thậm chí anh ta có yêu mến cô ấy, cô
ấy cũng sẽ thấy kẻ thù trong anh ta chứ không phải người bạn. Anh ta thậm chí sẽ
không có vẻ con người với cô ấy; anh ta sẽ giống như sứ giả từ địa ngục. Nhưng
trên khuôn mặt của những bức tượng đó bạn sẽ thấy hình bóng vinh quang của Phật,
sự phản chiếu cao thượng của Mahavira. Sự điềm tĩnh và thanh thản trên gương mặt
của những bức tượng đó là của samadhi. Sự thiêng liêng thanh thản phát ra từ họ.
Chẳng khác gì con sóng của an bình vĩnh hằng bao quanh bạn nếu bạn thiền về những
bức tượng này. Bạn sẽ kính nể.
Nếu bạn sợ rằng
dục sẽ tràn ngập bạn sau khi thấy các bức tượng trần truồng ấy, tôi xin bạn, đến
thẳng Khajuraho không chậm trễ gì hơn. Khajuraho là tượng đài duy nhất trên
trái đất này, ấy vậy mà về sau các nhà đạo đức như Shree Purshottamdas Tandon
và đồng nghiệp của ông ấy lại có ý kiến rằng những bức tường của Khajuraho nên
được che bằng lớp đất nung bởi vì họ tin những hình ảnh đó làm cho mọi người động
dục. Tôi kinh hãi khi nghe thấy điều này! Những người xây dựng Khajuraho đã có
mục đích, và đó là ở chỗ nếu mọi người ngồi trước những bức tượng đó và thiền về
chúng, họ sẽ thoát khỏi khao khát dục. Trong hàng nghìn năm nay những hình ảnh
đó đã là chủ đề cho thiền. Nó nêu ra tấm gương kì diệu cho chúng ta, rằng những
người thái quá về dục nên được yêu cầu đi tới các ngôi đền Khajuraho, để thiền
về các tượng này, để làm mất mình trong chúng.
Mặc dầu chúng
ta thường quan sát cùng chân lí này trong kinh nghiệm con người thông thường,
chúng ta vẫn không thực sự có khả năng thấy nó. Chẳng hạn, nếu bạn đi ngang qua
và thấy hai người đang cãi nhau trên đường, bạn cảm thấy muốn dừng lại và quan
sát trận khẩu chiến. Tại sao? Bạn đã bao giờ nghĩ về điều bạn thoát ra khỏi việc
nhìn người khác đánh nhau chưa? Dẹp cả đống việc sang bên, bạn sẽ dừng lại đến
nửa giờ để quan sát mọi người đánh nhau. Bạn cũng đi xem đấm bốc nữa. Tại sao?
Bạn có lẽ không nhận biết rằng chúng có hiệu quả trị liệu. Bằng việc quan sát
hai người đánh nhau, bản năng đánh nhau ăn sâu vẫn tồn tại trong bạn được thoả
mãn. Nó tan biến đi; nó bị tống ra, và bạn trở nên bình tĩnh hơn. Nếu người ta
ngồi và thiền với tâm trí an bình theo những hình ảnh giao hợp, cái điên cuồng
bên trong, cái dâm dục điên khùng của con người có thể bay hơi đi.
Một người tới
bác sĩ tâm thần với một vấn đề: anh ta rất lấy làm khó chịu với ông chủ mình. Nếu
ông chủ anh ta nói điều gì với anh ta là anh ta lập tức trở nên giận dữ và cảm
thấy muốn tháo giầy ra và đánh vào ông chủ.
Nhưng, làm sao
bạn có thể đánh ông chủ mình được? Có người nào lại không cảm thấy thích đánh
ông chủ mình vào chỗ nào đó không? Nhân viên như vậy cũng hiếm hoi đấy.
Trong bất kì
trường hợp nào, người này cứ kìm nén ham muốn đánh ông chủ mình, nhưng anh ta bắt
đầu phát triển phức cảm về nó, và sợ mình có thể thực tế đánh ông chủ một ngày
nào đó, anh ta bắt đầu để giầy ở nhà. Nhưng anh ta không thể quên đôi giầy được.
Bất kì khi nào anh ta thấy ông chủ mình, tay anh ta lại tự động đưa về chân.
Nhưng may mắn là đôi giầy đã được bỏ ở nhà, và anh ta cảm thấy chút ít dễ dàng
hơn bởi vì anh ta biết rằng một hôm, trong cơn điên cuồng, anh ta chợt có thể
tháo giầy ra và đánh nó vào ông chủ.
Nhưng anh ta
đâu có tự giải phóng được mình khỏi đôi giầy chỉ bởi việc để chúng ở nhà; chúng
tiếp tục hiện ra lù lù trong tâm thức anh ta. Nếu anh ta đang nghịch với cái
bút chì, anh ta vẽ giầy lên giấy; trong lúc rỗi rãi, anh ta phác hoạ hình dáng
chiếc giầy. Chiếc giầy choán toàn bộ ý nghĩ anh ta, và anh ta sợ đến chết về việc
anh ta sẽ tấn công ông chủ một khi nào đó.
Tại nhà, anh ta
bảo gia đình mình là tốt hơn cả là anh ta không đi làm nữa. Bây giờ, điều kiện
tâm trí của anh ta đến mức là anh ta không cần chiếc giầy riêng nữa: anh ta có
thể lấy giầy của bất kì ai để ném vào ông chủ; tay anh ta thậm chí đã bắt đầu
đưa xuống chân của đồng nghiệp. Đến điểm này, gia đình anh ta quyết định đã đến
lúc phải đưa anh ta đến nhà tâm thần. Và thế là anh ta tới.
Bác sĩ tâm thần
nói bệnh của anh ta chẳng là gì để phải lo nghĩ nhiều, rằng bệnh đó là chữa được.
Ông ta khuyên anh chàng hãy treo bức ảnh của ông chủ tại nhà rồi đánh giầy vào
đó năm lần mỗi sáng. Bức ảnh bị đánh một cách đều đặn, trước khi anh ta tới văn
phòng, và hơn nữa, anh ta không bỏ lỡ ngày nào. Cái lễ này được tôn trọng hàng
ngày, cũng giống như cầu nguyện buổi sáng, và thế rồi, sau khi trở về từ văn
phòng mỗi ngày, quá trình này lại được lặp lại.
Phản ứng đầu
tiên của người này là, “Vô nghĩa làm sao!” Mặc dầu anh ta đã ngạc nhiên với cái
ý tưởng này, anh ta vẫn cảm thấy rất sung sướng về nó. Bức ảnh treo đó và, theo
đó, anh ta bắt đầu buổi lễ theo qui định.
Vào ngay ngày đầu
tiên, khi anh ta tới văn phòng sau khi đánh bức ảnh năm lần, anh ta để ý một cảm
giác lạ: anh ta đã không cảm thấy giận ông chủ như anh ta đã giận. Và, trong
vòng nửa tháng, anh ta đã trở nên rất lễ phép với ông chủ. Ông chủ anh ta cũng
để ý thấy thay đổi trong anh ta, nhưng tất nhiên ông ta đâu biết điều vẫn đang
xảy ra. Ông ta cũng được nhân viên này nói cho rằng anh ta đã trở nên rất lễ
phép, rất vâng lời và rất tốt thực sự về sau và ông ấy muốn biết điều gì đã xảy
ra. Nhân viên này đáp, “Xin đừng hỏi tôi về điều đó nếu không mọi thứ sẽ rối
tinh lên. Tôi không thể nói cho ông được.”
Chân lí đằng
sau câu chuyện này là gì? Liệu mọi thứ có thể được đạt tới chỉ bởi việc đánh bức
ảnh không? Có đấy - bằng việc đánh bức ảnh, ám ảnh của người này về việc đánh
ông chủ bằng chiếc giầy đơn giản tan biến đi, mờ nhạt đi.
Những ngôi đền
giống như đền ở Khajuraho, Konarak và Puri nên có ở mọi xó xỉnh và ngóc ngách của
đất nước này. Chẳng có gì quan trọng để tìm kiếm ở các đền khác; chẳng có gì
khoa học, không kế hoạch, không ý nghĩa trong chúng. Chúng không cần chút nào cả.
Nhưng sự tồn tại của các đền Khajuraho và những đền khác giống như chúng lại
tràn đầy ý nghĩa. Bất kì ai có tâm trí quá băn khoăn về dục đều nên tới đó và
thiền. Khi anh ta trở lại, anh ta sẽ sáng lên trong tim; anh ta sẽ được an
bình.
Những người
theo Mật tông cố gắng biến đổi dục thành tâm linh, nhưng những người thuyết
giáo về đạo đức trong đất nước này không cho phép thông điệp đó tới đám đông.
Đây cũng là những người muốn chấm dứt bài nói của tôi.
Trong lần tôi
trở lại Jabalpur, ba ngày sau bài nói của tôi ở thính phòng Bharatiya Vidya
Bhavan đây tại Bombay, tôi đã nhận được một bức thư từ một người bạn bảo tôi rằng
nếu tôi còn tiếp tục những bài nói này thì tôi sẽ bị bắn. Tôi muốn đáp lại anh
ta, nhưng những quí vị hung hăng dường như là kẻ hèn nhát: anh ta chẳng kí vào
thư cũng không cho địa chỉ; anh ta có lẽ sợ tôi sẽ báo vấn đề này với cảnh sát.
Dẫu sao đi chăng nữa, nếu anh ta có mặt ở đây, thì anh ta cũng nên chấp nhận lời
đáp của tôi bây giờ. Thậm chí nếu anh ta có ở đây, tôi cũng chắc chắn anh ta hoặc
là ẩn sau bức tường hay cây cối. Nếu anh ta ở đâu đó xung quanh tôi muốn bảo
anh ta rằng tôi không định đi báo sự đe doạ đó, nhưng anh ta nên cho tôi tên
anh ta và địa chỉ để cho tôi có thể ít nhất cũng gửi cho anh ta lời đáp. Nhưng,
nếu anh ta thậm chí còn không dám làm nhiều đến thế, tôi sẽ trao cho anh ta lời
đáp của tôi ở đây. Anh ta nên nghe một cách chăm chú.
Anh có có thể
không nhận biết được về điều này, nhưng ngay chỗ đầu tiên anh ta không nên vội
vàng bắn tôi, bởi vì với một phát đạn, điều tôi đang nói sẽ trở thành chân lí
vĩnh hằng. Nếu như Jesus không bị đóng đinh, thế giới đã quên lãng ông ấy từ
lâu rồi. Theo cách đó, bức hại đã đem lại ích lợi cho Jesus. Tác giả George
Gouzette nói rằng Jesus đã lập kế hoạch cho việc đóng đinh của mình. Bản thân
Jesus muốn bị đóng đinh bởi vì, thế thì, mọi lời ông ấy đã thuyết giảng sẽ trở
thành chân lí sống cho nhiều thời đại sắp tới và sẽ có ích cho hàng triệu người.
Điều này là
hoàn toàn có thể. Judas, người đã bán Jesus lấy ba mươi đồng tiền, là một trong
những tông đồ được yêu mến nhất của ông ấy. Không thể tin được rằng một người
đã để ra biết bao nhiêu năm ở cùng với Jesus lại bán mình để được số tiền nhỏ mọn
thế trừ phi là bản thân Jesus đã gợi ý rằng ông ta làm điều đó, trừ phi là bản
thân Jesus đã gợi ý ông ta đổi phe và thu xếp sự bức hại để cho lời của ông ấy
có thể trở thành nguồn nước cam lồ vĩnh hằng, giải thoát hàng triệu người.
Có thể đã có ba
trăm triệu người Jaina trên thế giới và không chỉ ba triệu, như trường hợp hiện
nay, nếu Mahavira bị đóng đinh. Nhưng Mahavira qua đời một cách an bình; ông ấy
có lẽ không bao giờ nghĩ về việc chết trên cây thập tự. Không ai cố làm điều đó
với ông ấy, bản thân ông ấy cũng không cố gắng thu xếp điều đó. Không Phật,
không Mohammed không Rama không Krishna không Mahavira, mà Jesus mới là người bị
đóng đinh trên cây thánh giá - và ngày nay nửa thế giới là người Ki tô giáo. Và
cả thế giới có thể một ngày nào đó cải sang Ki tô giáo. Đây là phía sáng hơn của
việc bị đóng đinh. Do đó, tôi nói với anh bạn tôi đừng quá vội vàng bắn tôi, nếu
không anh ta sẽ lại hối hận về hành động của mình cho những ngày còn lại của
anh ta.
Điều thứ hai là
ở chỗ anh không nên lo nghĩ quá nhiều về điều đó, bởi vì tôi không có ý định chết
trên giường. Khi thời gian đúng tới, tôi sẽ làm hết sức mình để thấy rằng người
này hay người nọ bắn tôi. Anh ta không nên hấp tấp; bản thân tôi sẽ thu xếp việc
đó. Cuộc sống là có ích nhưng khi một người bị ám sát, thì cái chết cũng trở
nên có ích. Cái chết do đạn bắn thường có thể hoàn thành điều cuộc sống không
thể làm được.
Mọi người bao
giờ cũng lặp lại cùng sai lầm này - những người trao thuốc độc cho Socrates, những
người ám sát Mansoor, những người đóng đinh Jesus. Đấy toàn là hành động trẻ
con, tất cả đều tự chết yểu. Và cũng mới gần đây thôi, người đã bắn vào Gandhi
cũng không nhận biết rằng không một tín đồ nào của Gandhi có thể đã thành công
trong việc kéo dài kí ức về Gandhi tới mức rằng anh ta đã thành công bởi hành động
ám sát ông ấy. Gandhi khoanh tay trong cử chỉ cúi mình khi ông ấy bị bắn và chết.
Cái cúi mình đó, cái khoanh tay đó, là rất có ý nghĩa. Nó là mang tính diễn đạt
theo nghĩa rằng đệ tử cuối cùng và tốt nhất của Gandhi chung cuộc đã tới: người
sẽ làm cho Gandhi thành bất tử. Thượng đế đã gửi tới người cần thiết.
Không ai chết bởi
việc bị ám sát cả; điều đó chỉ giúp làm cho người ta thành bất tử. Âm mưu của
cuộc sống là phức tạp; câu chuyện của cuộc sống tràn đầy với những tình trạng
chưa quyết định: mọi thứ không đơn giản như chúng dường như vậy. Người chết
trên giường thì chết mãi mãi, trong khi người chết bởi viên đạn ám sát lại chẳng
bao giờ chết cả.
Khi thuốc độc
được chuẩn bị cho Socrates, một số trong các bạn ông đã hỏi nên xử trí thân thể
ngài thế nào sau đó. “Nên đem chôn nó đi hay đem thiêu hay thế nào?” họ hỏi.
Socrates cười to và nói, “Các ông bạn ngốc nghếch ơi! Các ông không biết điều
đó, nhưng các ông sẽ chẳng bao giờ có thể chôn ta được đâu. Ta sẽ sống thậm chí
khi tất cả các ông không còn nữa. Mà cái mẹo là, ta đã chọn cái chết chỉ để sống
mãi mãi!”
Cho nên, anh bạn
tôi ơi, nếu anh ở đây, không nên hành động một cách vô suy nghĩ, nếu không anh
sẽ nhanh chóng nhận ra mình là kẻ thua cuộc. Tôi sẽ chẳng bị hại gì cả; tôi
không phải là một trong những người mà đạn có thể phá huỷ được. Tôi là một
trong những người sẽ sống với đạn. Anh bạn không nên vội vàng bắn tôi. Anh bạn
không nên bối rối nữa, vì tôi sẽ làm hết sức mình để không chết trên giường. Loại
chết đó không thích đáng. Loại chết đó là cái chết không xứng đáng. Và điểm thứ
ba anh bạn cần phải nhớ là đừng sợ kí tên vào thư, cũng đừng sợ cho địa chỉ. Nếu
tôi bị thuyết phục có ai đó đủ bạo dạn và đủ sẵn sàng để bắn tôi, tôi sẽ giữ lời
hứa không báo cho ai cả, để cho về sau anh ấy sẽ không bị dính líu.
Nhưng chẳng có
gì rất kì lạ về người này cả. Anh ta đã viết với sự tin chắc anh ta đang bảo vệ
tôn giáo. Anh ta viết bởi vì anh ta nghĩ tôi muốn phá huỷ tôn giáo, còn anh ta
muốn khôi phục tôn giáo. Chủ định của anh ta cũng không có ác tâm. Cảm giác của
anh ta là rất chân thành và, với anh ta là rất tôn giáo.
Những người được
gọi là tôn giáo như vậy đều đang chơi với xúc động của thế giới. Chủ định của họ
có thể rất tốt nhưng trí thông minh của họ lại rất nghèo nàn. Với nhiều thời đại,
những người tự cho mình là phải như vậy và loại người kiểu họ đã bóp chết việc
nở hoa đầy đủ của chân lí, và bởi vì tri thức đã bị kiềm chế theo cách tương tự,
nên dốt nát đang lan rộng. Chúng ta dò dẫm trong bóng tối; chúng ta lạc trong
đêm tối của dốt nát. Những nhà thuyết giảng đạo đức này đã xây dựng bục giảng
kinh cao để từ đó họ làm lễ cho chúng ta.
Nhưng cũng đúng
là khi tia sáng của chân lí bắt đầu rạng lên trong các kiếp sống chúng ta, cái
gọi là những người linh thiêng sẽ thất nghiệp. Khi chúng ta có khả năng sinh ra
mối quan hệ sống với Thượng đế; khi chúng ta đi tới biết samadhi; khi các kiếp
sống tầm thường, thông thường của chúng ta bắt đầu được biến đổi thành cuộc sống
thiêng liêng, sẽ không còn công việc gì cho các nhà đạo đức và thuyết giáo nữa.
Nhà thuyết giáo chỉ có ưu thế chừng nào mọi người còn dò dẫm trong bóng tối.
Bác sĩ là cần tới
khi mọi người bị ốm, nhưng bác sĩ sẽ thừa nếu mọi người hết ốm. Giống như nghề
thuyết giáo, nghề thuốc phát đạt theo xung đột bên trong, bởi vì cuộc sống của
bác sĩ phụ thuộc vào người bị bệnh. Bác sĩ chữa cho bệnh nhân ở phía ngoài,
nhưng bên trong ông ta hi vọng họ cứ ốm. Và khi có bệnh dịch, ông ta cám ơn Thượng
đế về việc đó.
Tôi đã nghe một
câu chuyện:
Một đêm một
nhóm bạn bè có một bữa tiệc lớn. Ăn và uống, họ chè chén say sưa cho tới đầu giờ
sáng. Khi họ bắt đầu ra về, người chủ khách sạn bảo vợ cám ơn Thượng đế do việc
đưa họ tới theo số đông. Nếu khách cứ xô đến tiếp tục họ sẽ trở nên giầu, ông
ta bảo với vợ. Người chủ trì, khi anh ta trả tiền, đã yêu cầu ông chủ khách sạn
cầu nguyện cho sự thịnh vượng của công việc kinh doanh nữa, để cho họ có thể tới
lần nữa.
Ông chủ khách sạn
hỏi, “Nhân tiện, thưa ông, ông làm nghề gì ạ?”
“Tôi làm dịch vụ
lễ tang,” anh ta nói. “Việc kinh doanh của tôi phát đạt nhất khi mọi người chết.”
Tương tự, nghề
bác sĩ có thể là cứu chữa người, nhưng càng nhiều người ngã bệnh ông ta càng
làm tiền nhiều. Bên trong, ông ta hi vọng bệnh nhân mình đừng khỏi chóng quá.
Và do vậy phải mất thời gian để bệnh nhân được chữa chạy, đặc biệt là nhà giầu.
Bệnh nhân nghèo khỏi nhanh hơn bởi vì bác sĩ không kiếm được nhiều nếu người
nghèo ốm trong thời gian lâu. Lợi nhuận là từ khách hàng giầu, và do vậy ông ấy
làm chậm rãi khi chữa cho người giầu. Dẫu sao đi chăng nữa, người giầu bao giờ
cũng không khoẻ; họ là câu trả lời cho lời cầu nguyện của bác sĩ.
Người thuyết
giáo cũng cùng một lớp. Người ta càng vô đạo đức, càng có nhiều phần tử chống
xã hội, hỗn loạn càng lan rộng, bục giảng kinh của ông ta càng trở nên cao hơn
- bởi vì thế thì có nhiều nhu cầu với ông ta hơn để cổ vũ mọi người tôn trọng bất
bạo lực, trung thực, hành xử lương thiện, tôn trọng qui định này, trung thành với
qui tắc kia, và vân vân. Nếu mọi người đều phải cả, đều biết kiềm chế, có kỉ luật,
an bình, trung thực và linh thiêng, thì nghề của người thuyết giáo sẽ không tồn
tại nữa.
Và tại sao lại
có lắm kẻ thuyết giáo và cái gọi là lãnh tụ tôn giáo ở Ấn Độ đến thế - còn nhiều
hơn ở bất kì đâu khác trên toàn thế giới này? Tại sao, trong mỗi và mọi làng mạc
và trong mỗi và mọi ngôi nhà, đều có học giả, guru, swami hay tu sĩ? Tại sao có
số đông lãnh tụ tôn giáo trên đất nước này thế?
Người ta không
nên giả thiết chúng ta là một dân tộc tôn giáo sâu sắc bởi vì chúng ta có nhiều
vị thánh và guru thế. Đấy là một sự kiện rằng chúng ta, ngày nay, đang là một
trong những quốc gia phi tôn giáo và vô đạo đức nhất trên thế giới. Đó là lí do
tại sao biết bao nhiêu người thuyết giáo tìm thấy cơ hội vàng ở nước chúng ta.
Thuyết giảng đã trở thành hình ảnh quốc gia của chúng ta. Một người bạn của tôi
đã gửi cho tôi một bài báo lấy từ một tạp chí của Mĩ. Anh ấy cần ý kiến của tôi
về một thiếu sót mà anh ấy đã để ý thấy nó. Đấy là bài báo khôi hài, nói rằng
tính cách quốc gia của bất kì nước nào đều có thể được biết chắc bằng việc làm
cho người của nước đó bị say. Nếu người Hà lan say, bài báo nói, người đó sẽ chộp
lấy thức ăn và không để còn lại cái gì trên bàn ăn; ngay khi anh ta uống thì
anh ta đã bận ăn trong hai đến ba giờ. Nếu người Pháp uống, anh ta trở nên bất ổn;
anh ta muốn hát và nhảy múa. Nếu người Anh say, anh ta sẽ chui vào một góc và
giữ yên mình ở đó. Người Anh thông thường im lặng và khi anh ta bị say thì anh
ta trở nên càng thờ ơ hơn. Đấy là các phản ứng điển hình của nhiều quốc tịch,
theo bài báo.
Nhưng bởi sơ suất
hay dốt nát, chẳng có nói gì tới Ấn Độ cả. Bạn tôi hỏi tôi phải nói gì về tính
cách Ấn Độ; anh ấy hỏi tôi điều gì sẽ xảy ra nếu người Ấn Độ say khướt cò bợ.
Tôi đã viết cho anh ấy rằng câu trả lời đã nổi tiếng thế giới rồi: khi người Ấn
Độ bị say thì anh ta lập tức bắt đầu thuyết giáo. Đây là tính cách quốc gia của
chúng ta.
Hàng không dứt
các nhà thuyết giáo, thầy tu, nhà sư và guru này là dấu hiệu cho bệnh lan rộng;
nó là chỉ dẫn về vô đạo đức lớn. Và điều kì lạ nhất là ở chỗ, trong tâm điểm
trái tim người ta, không một lãnh tụ nào trong số này muốn vô đạo đức bị diệt
chủng, muốn bệnh này bị xoá bỏ đi - bởi vì nếu và khi nó được chữa lành, thì
nhà truyền giáo sẽ không còn việc gì để làm nữa. Khao khát bên trong của họ là ở
chỗ bệnh này cứ tiếp tục, ở chỗ ốm yếu này cứ tăng lên.
Cách dễ dàng nhất
để cho phép bệnh này tiếp tục không bị kiểm tra là kìm hãm phát triển tri thức
bao quát về cuộc sống, và doạ con người để đừng mong muốn hiểu các khía cạnh
sâu sắc hơn và ý nghĩa hơn của cuộc sống. Và chính dốt nát về những điều này tự
động gây ra việc lan toả của vô đạo đức, truỵ lạc và thoái hóa. Nếu mọi người
có thể cố gắng nhận ra và biết tới những khía cạnh chói sáng và sâu sắc này của
cuộc sống, thế thì phi tôn giáo và những bệnh tật hệ quả của nó sẽ bắt đầu tan
biến, từng cái một.
Tôi muốn lôi
kéo chú ý của các bạn vào sự kiện rằng dục là khía cạnh của cuộc sống có trách
nhiệm nhất cho cái vô đạo đức. Nó bao giờ cũng là nguyên nhân cơ bản và có ảnh
hưởng nhất của hư hỏng, truỵ lạc và đờ đẫn trong con người. Và do vậy các nhà
lãnh đạo tôn giáo chưa bao giờ muốn nói về nó cả.
Một người bạn
khác của tôi đã gửi một thông điệp nói rằng không vị thánh hay guru nào đã từng
nói về dục cả. Anh ta viết rằng sự kính trọng cao của anh ta với tôi đã kém đi
bởi vì việc nói của tôi về dục. Tôi muốn bảo với anh ấy chẳng có lí do gì để mà
thất vọng trong tôi cả. Trước hết, nếu bạn có lần đã kính trọng tôi, thì đấy là
sai lầm của bạn. Tại sao phải kính trọng tôi? Động cơ của bạn là gì? Khi nào
tôi đã yêu cầu bạn kính trọng? Nếu bạn kính trọng tôi, đấy là lỗi của bạn; nếu
bạn không thiên vị nữa; đấy là quyền của bạn. Tôi không phải là mahatma, tôi
cũng chẳng thiên về người nào.
Nếu như tôi có
hơi chút ham muốn để trở thành mahatma hay guru, thì tôi sẽ không bao giờ chọn
chủ đề này ngay chỗ đầu tiên. Người ta không bao giờ có thể trở thành mahatma nếu
người ấy không rất láu cá trong việc chọn lựa chủ đề cho bài nói của mình. Tôi
chưa bao giờ là mahatma cả, tôi không là mahatma, và tôi chắc chắn không muốn
trở thành mahatma - bản thân ham muốn đó là phóng chiếu của bản ngã tinh vi,
tinh tế. Tôi là một con người, và điều đó là đủ tốt cho tôi rồi. Chẳng lẽ không
đủ sao, chỉ là một con người thôi? Con người không thể hạnh phúc mà không cưỡi
lên đầu lên cổ người khác, không áp đặt bản thân mình lên người khác, không đòi
hỏi quyền lực dưới dạng này dạng khác được sao? Con người không thể hạnh phúc
đơn giản chỉ bởi việc vẫn còn là một con người được sao? Trong bất kì tình huống
nào tôi cũng thấy bản thân mình hạnh phúc và hài lòng.
Tôi mong ước về
sự cao thượng trong nhân loại; tôi muốn thấy con người vĩ đại hơn. Chẳng lẽ việc
trở thành con người, đạt tới toàn bộ phạm vi của nhân cách lại không là điều vĩ
đại sao? Mọi người đều có thể trở thành vĩ đại; mọi người đều có khả năng trở
thành vĩ đại theo nghĩa đúng đắn của từ này. Thời của các mahatma và các guru
đã qua rồi; họ không còn được cần thêm nữa. Một nhân loại vĩ đại là điều bản chất;
có nhu cầu dành một giờ này cho nhân loại vĩ đại. Đã có nhiều con người vĩ đại,
nhưng chúng ta thu được gì từ họ? Nhu cầu không phải là ở người vĩ đại, mà là
nhân loại vĩ đại, loài người vĩ đại.
Ít nhất thì một
người cũng vỡ mộng; ít nhất thì một người đã đi tới biết rằng mình không phải
là người vĩ đại. Đây là giảm nhẹ lớn, vỡ mộng của con người này. Anh ta đã viết
cho tôi để khích tôi mang quyền mahatma; anh ta nói tôi có thể trở thành một
guru lớn nếu tôi chấm dứt thảo luận về những chủ đề như vậy. Mãi cho tới nay,
các mahatma và guru đã bị lừa phỉnh bởi cách như vậy, và xem như kết quả, những
người vĩ đại nhưng yếu ớt đó đã không thảo luận về các chủ đề có thể gây ra thảm
hoạ cho quyền làm guru của riêng họ, quyền làm mahatma của riêng họ. Trong mối
quan tâm của họ để cứu lấy vương miện của riêng mình, họ chưa bao giờ để ý tới
việc họ đã gây ảnh hưởng tai hại làm sao cho nhiều người.
Tôi không bận
tâm tới việc ở cái bệ cao nào đó. Tôi không mơ về nó; tôi không có ý định về một
cái như thế. Mặt khác, tôi lại quan ngại rằng ai đó có thể muốn làm tôi thành
mahatma một ngày nào đó.
Những ngày này,
không thiếu gì các guru và mahatma, và để được xem là một người như vậy thì điều
rất quan trọng là phải chấp nhận vị thế đúng. Nó bao giờ cũng là như vậy. Nhưng
vấn đề nan giải không phải là việc có sẵn các mahatma, mà là làm sao con người
đích thực có thể tiến hoá được. Chúng ta có thể làm gì để đạt tới mục đích đó?
Làm sao chúng ta có thể áp dụng cho mình nhiệm vụ đó?
Tôi tin cậy và
tin tưởng rằng điều chúng ta đã thảo luận sẽ hướng dẫn bạn trên con đường đúng
hướng tới việc phá vỡ những rào chắn vẫn ngáng trên đường tiến hoá của con người
đích thực. Con đường này là thấy được; biến đổi dần dần của thèm khát dục trong
bạn là có thể. Dục của bạn có thể trở thành samadhi của bạn.
Bây giờ, như bạn
hôm nay, bạn là thèm khát của mình; bạn không phải là linh hồn mình. Bạn cũng
có thể trở thành linh hồn, nhưng chỉ bằng việc biến đổi dần dần tính dục của
mình. Chỉ thế thì cuộc hành trình của bạn tới Thượng đế mới có thể bắt đầu.
Nhiều câu hỏi
tương tự khác đã được gửi tới tôi, cho nên cho phép tôi xét duyệt vài điểm quan
trọng.
Tôi đã nói các
bạn phải cố gắng có nhận biết liên tục về thoáng nhìn về samadhi trong giao hợp.
Người ta nên cố gắng nắm bắt lấy điểm đó, cái thoáng nhìn về samadhi đó loé lên
giống như tia chớp trong màn sương mờ của giao hợp, chỉ lung linh trong một
giây giống như ma trơi và thế rồi tan biến. Nỗ lực của bạn phải là để biết nó,
trở nên quen thuộc với nó, giữ lấy nó. Nếu bạn có thể tạo ra tiếp xúc đầy đủ,
dù chỉ một lần, trong khoảnh khắc đó bạn sẽ biết rằng bạn không là thân thể, rằng
bạn vô thân thể. Trong phần thời gian đó bạn là cái gì đó khác: thân thể bị bỏ
lại đằng sau và bạn trở thành linh hồn, cái ta thực của bạn. Nếu bạn có thoáng
nhìn vào vinh quang đó cho dù chỉ một lần, bạn có thể theo đuổi nó, thông qua
dhyana, thông qua thiền, để thiết lập mối quan hệ sâu sắc và lâu dài với nó. Thế
thì con đường tới samadhi là của bạn. Và khi nó trở thành một phần của hiểu biết
của bạn, phần của tri thức của bạn và cuộc sống bạn, sẽ không còn chỗ cho thèm
khát nữa.
Một người bạn
khác sợ về điều có thể xảy ra cho con cái chúng ta, cho toàn bộ nòi giống chúng
ta, nếu chúng ta vứt bỏ dục như thế này. “Nếu mọi người đều đạt tới vô dục qua
samadhi,” anh ấy hỏi, “thì các thế hệ tương lai sẽ thế nào?”
Người ta có thể
dứt khoát tuyên bố rằng loại con cái hiện giờ đang được tạo ra sẽ không tồn tại
nữa. Cách thức sinh sản hiện tại là tốt để tạo ra mèo, chó và các con vật khác,
nhưng không đủ tốt cho con người. Đây là loại thái độ gì đối với sinh sản ? Đây
là loại chế tạo con trẻ gì mà không suy nghĩ thế? Loại sinh sản số đông này,
sinh sản ngẫu nhiên này là vô mục đích; nó là vô dụng. Và đám đông của chúng ta
trở nên đông đúc làm sao! Dân số chúng ta đã bùng nổ theo tỉ lệ không thể nào
tin được rằng nếu nó không được kiểm soát theo thời gian, thì các nhà khoa học
nói thậm chí sẽ không có đủ chỗ để di chuyển ngón chân bạn trong một trăm năm!
Trong một trăm năm bạn bao giờ cũng cảm thấy bạn đang ở giữa một loại tụ tập
nào đó. Bất kì khi nào bạn nhìn thì bạn cũng sẽ cảm thấy gặp gỡ đang tiếp diễn.
Triệu tập họp sẽ là không cần thiết.
Câu hỏi của người
bạn đặc biệt này là rất liên quan. Anh ấy có thể hỏi làm sao con cái sẽ được tạo
ra nếu vô dục trở thành thông dụng.
Tôi muốn trao
cho anh ấy một điều làm cho tỉnh ngộ nữa, và bạn cũng nên chú ý: Con cái có thể
được sinh ra từ vô dục, nhưng toàn bộ mục đích và ý nghĩa của việc tạo ra con
cái sẽ có một chiều hướng mới. Thèm khát không phải là phương tiện đúng cho việc
sinh sản - vô dục là trung gian duy nhất đủ phân biệt. Cứ như nó bây giờ, sinh
con cái là ngẫu nhiên: bạn đi vào trong dục với động cơ nào đó khác; con cái chỉ
là ngẫu nhiên. Con cái là khách không mời, và bạn chỉ có thể có nhiều tình yêu
với con cái như bạn có với khách không trông đợi.
Và khách không
mời đã được đối xử như thế nào? Bạn chuẩn bị giường cho họ thoải mái và bạn phục
vụ họ thức ăn; bạn đón chào họ một cách lễ phép và bạn nuông chiều họ - nhưng mọi
thứ đều được làm theo phép xã giao; không có cảm giác về tình yêu bên trong. Ý
nghĩ thường xuyên của bạn là, “Khi nào những cái chán ngắt này sẽ ra đi?”
Bạn đối xử với
con cái không mong muốn theo cùng cách đó, bởi một lí do đơn giản là bạn chưa
bao giờ muốn có chúng ngay chỗ đầu tiên. Bạn đang theo đuổi cái gì đó khác;
chúng đơn giản là sản phẩm phụ. Con cái ngày nay không phải là sản phẩm, chúng
là sản phẩm phụ. Chúng không được tạo ra, chúng tới cùng với dục như lớp vỏ bọc
bao lấy bắp ngô.
Và do vậy toàn
bộ thế giới đã từng cố gắng để bảo vệ dục khỏi những ngẫu nhiên đó. Các cách kiểm
soát sinh đẻ đã được phát triển ra từ thái độ này; trợ giúp phi tự nhiên đã được
phát minh ra để cho chúng ta có thể tận hưởng dục và, đồng thời, lại được an
toàn không sinh con. Trong nhiều thời đại nỗ lực đã được tiến hành để cứu nhân
loại khỏi cái gọi là cái xấu. Thậm chí kinh sách cổ Ayurvedic cũng nói tới các
phương thuốc. Nhà khoa học ích kỉ ngày nay cũng quan tâm tới cùng điều mà các học
giả Ayurvedic ba nghìn năm trước đây đã lo nghĩ.
Tại sao? Tại
sao con người lại tập trung vào nghiên cứu này? Con cái khởi động bão tố; con cái
bật ra giữa mọi điều; con cái đem tới gánh nặng về trách nhiệm, và cũng có mối
nguy hiểm về tính lãnh cảm của phụ nữ đối với dục sau khi sinh con.
Người ta không
muốn có con. Người ta có thể muốn có con nếu người đó chưa có, nhưng đấy không
phải là vì người đó yêu con cái, đấy là vì người đó yêu của cải. Khi một người
muốn có con, bạn chớ lầm trong việc tin rằng linh hồn người đó đang băn khoăn về
đứa con, về một con người mới và hồn nhiên. Anh ta đã cóp nhặt của cải của mình
bằng lao động vất vả. Ai mà biết được nó có thể thuộc về bàn tay ai sau khi anh
ta chết! Anh ta cần một kẻ thừa kế, người được sinh ra từ dòng máu riêng của
anh ta, để cứu lấy của cải của anh ta, để tận hưởng tài sản của anh ta. Không
ai muốn có con với mục đích chỉ là đứa con. Chúng ta cố gắng cứu mình tránh khỏi
chúng, nhưng chúng đơn giản cứ tới theo cách riêng của chúng. Chúng ta chỉ muốn
hưởng thú dục và trẻ con lại tạt vào! Con cái này là sản phẩm phụ của dục.
Chúng là ốm yếu, chúng yếu ớt, chúng mỏng manh, chúng là tấm màn che với nỗi
băn khoăn.
Con cái cũng có
thể được thụ thai bởi vô dục, nhưng chúng sẽ không là sản phẩm phụ ngẫu nhiên của
dục. Khi điều này xảy ra, dục sẽ là phương tiện để đem tới con cái nhưng nó sẽ
không là mục đích tự nó.
Bạn lên chiếc
máy bay tới Delhi. Máy bay là phương tiện để tới Delhi. Khi bạn tới đó bạn
không định nói bạn sẽ không ra khỏi máy bay.
Khi bạn đạt tới
trạng thái siêu tâm thức qua dục, khi bạn đã đạt tới brahmacharya, tới trạng
thái giao cảm với điều thiêng liêng, con bạn sẽ là sản phẩm thật, nó sẽ là sáng
tạo thực sự! Nhưng mãi cho tới nay, tâm trí khéo léo của con người đã tập trung
vào việc xây dựng nên những bộ máy bảo vệ để giúp cho anh ta tránh con cái, ấy
vậy mà lại cho phép hưởng thú dục đầy đủ nhất. Nỗ lực đáng phải được làm theo
hướng ngược lại. Nhưng chúng ta vẫn muốn duy trì chỗ ngồi của mình thậm chí sau
khi chúng ta đã đạt tới sân bay Palam ở Delhi. Bạn có hiểu quan điểm của tôi
không? Nếu brahmacharya trở nên lan rộng, thì những phát minh của chúng ta có
thể được áp dụng theo hướng tâm linh. Hiện tại, thôi thúc là theo hướng đối lập:
ghét ý tưởng con cái và thích thú dục với mục đích riêng dục thôi.
Tôi cũng muốn hỏi
người này tại sao anh ta lo nghĩ về việc cứu thế giới khỏi brahmacharya. Hiện tại
anh ta quá sợ hãi rằng mọi người trở thành brahmacharya có thể chấm dứt việc
sinh ra con cái và chấm dứt thế giới. Anh bạn của tôi ơi, nếu mọi sự như bây giờ,
thì khả năng của mọi người trở thành brahmacharya là bằng không. Và nó sẽ vẫn
còn như vậy, chừng nào mà sự nhẫn tâm này, sự bất kính đặc biệt và có ý thức
này đối với dục vẫn tồn tại. Không, anh bạn của tôi ơi, không có nguy hiểm cho
thế giới từ ngả đó. Nhưng khả năng diệt chủng đang tăng lên hàng ngày bởi những
việc sinh ngẫu nhiên, liên tục này. Nếu bạn cứ sản sinh ra con cái theo kiểu
này thì thế giới chắc chắn sẽ đi tới kết thúc. Và bạn sẽ chẳng cần đến bom
nguyên tử hay bom khinh khí. Dân số cứ sinh sôi nẩy nở mãi thế này, sản phẩm phụ
khiêu dâm này của bầy sâu bọ sẽ tự nó huỷ diệt nó.
Con người mới,
được sinh ra từ brahmacharya, sẽ mang tầm vóc khác. Người đó sẽ có trường thọ
mà chúng ta không thể nào hình dung ra nổi. Sức khoẻ của người đó sẽ tuyệt vời;
người đó sẽ không bị bệnh tật. Hình hài và vóc dáng người đó sẽ giống như của
những tượng uy nghi. Và hương thơm thanh tao sẽ phát ra từ người ấy. Lòng tốt,
tình yêu, chân lí, cái đẹp và tôn giáo sẽ là tính cách của người đó. Người đó sẽ
được sinh ra với tôn giáo trong mình. Người đó sẽ là một loại hoá thân thiêng
liêng.
Chúng ta đã
sinh sản một cách phi tôn giáo. Chúng ta đã phải chịu tính phi tôn giáo từ khi
sinh và chúng ta chết đi trong phi tôn giáo. Và ở giữa, từ sáng tới đêm, từ
sinh tới tử, qua toàn bộ cuộc sống của các kiếp sống mình, chúng ta nói và nói
và nói mãi về tôn giáo. Trong con người tối cao sẽ không có bất kì huyên thuyên
riêng nào hay thảo luận trống rỗng về tôn giáo, bởi vì tôn giáo sẽ là cách sống
của người đó. Chúng ta nói về những điều không phải là một phần cuộc sống của
mình, và không nói về những điều đang có đấy. Chúng ta không nói về dục bởi vì
đấy là cách chúng ta sống, nhưng chúng ta giữ việc nói về Thượng đế bởi vì cách
chúng ta sống chẳng liên quan gì tới Thượng đế ở bất kì cái gì. Trong thực tế,
chúng ta giữ mình được thoả mãn bằng việc nói về mọi thứ mà chúng ta chẳng bao
giờ có thể đạt tới hay thu được.
Chẳng lẽ bạn
chưa bao giờ để ý rằng đàn bà nói nhiều hơn đàn ông sao? Đàn bà bao giờ cũng bận
rộn nói về cái gì đó hay cái khác - với hàng xóm, với bất kì ai chịu nghe. Cố ý
không làm mất lòng, nhưng người ta nói rằng rất khó hình dung ra nổi hai phụ nữ
ngồi cùng nhau một lúc mà lại không nói gì với nhau.
Tôi đã nghe rằng
một cuộc tranh cãi lớn đã được tổ chức ở Trung quốc để chọn ra người nói dối lớn
nhất nước. Người thắng sẽ được giải thưởng lớn, và do vậy tất cả những kẻ nói dối
giỏi nhất đều tụ tập tại vị trí đã chọn cho cuộc tranh cãi.
Khi đến lượt
mình, một người nói, “Tôi đi ra công viên và tôi thấy hai phụ nữ ngồi trên chiếc
ghế dài và giữ yên lặng.”
Có tiếng ồn ào
lớn. Mọi người đều khoái trá. Mọi người hô lên, “Không thể nào có chuyện bịa lớn
hơn thế này! Đây là người nói dối lớn nhất!”
Mọi người đều bầu
cho người này.
Tại sao phụ nữ
nói nhiều như họ vẫn thế? Đàn ông có việc của mình, nhưng đàn bà không có nhiều
việc để làm. Chỗ không có nhiều việc để làm, không nhiều hoạt động, thì bao giờ
cũng có huyên thuyên vu vơ. Nét nữ tính này là tính cách quốc gia của Ấn Độ.
Không có tiến bộ trong quốc gia này; chỉ có nói chuyện và thảo luận.
Con người mới,
con người được sinh ra từ brahmacharya, sẽ không nói nhiều - người đó sẽ sống
cuộc sống. Người đó sẽ không chỉ nói và nói về tôn giáo, người đó sẽ sống trong
tôn giáo. Mọi người sẽ quên về tôn giáo như chủ điểm cho thảo luận vu vơ, bởi
vì tôn giáo sẽ là chính bản chất của họ. Nghĩ về con người đó, hình dung về con
người đó là điều tuyệt diệu; đó là điều gây kính phục.
Những người như
vậy đã được sinh ra, nhưng việc sinh của họ còn hiếm hoi. Đôi khi, rất hãn hữu,
một người đẹp như vậy mới được sinh ra mà thậm chí quần áo đắt nhất cũng không
thể làm đẹp được người đó, và người đó đứng dậy không mặc quần áo, trần truồng,
và toả sáng của cái đẹp của người ấy lan toả đi xa và rộng. Mọi người xúm lại
quanh người đó - để thấy người đó, để kì thú vào một thiên thần sống. Một người
như vậy có vinh quang thế, có sinh khí thế mà mặc dầu tên người đó là
Vardhamana thì mọi người vẫn cứ gọi ông ấy là Mahavira - thắng lợi vĩ đại. Niềm
vinh quang của brahmacharya trong ông ấy lên đến mức mọi người phủ phục mình
trước ông ấy, trước con người Thượng đế này. Đôi khi một Phật được sinh ra, đôi
khi một Christ được sinh ra, đôi khi một Lão Tử được sinh ra. Chúng ta có thể
công khai đếm vài cái tên như thế trong toàn bộ lịch sử loài người.
Ngày con cái được
sinh ra từ vô dục, từ giao cảm thiêng liêng - bạn có lẽ không thích âm thanh của
câu “con cái theo vô dục” mà tôi đang nói về một khái niệm mới, về một khả năng
cao quí hơn - ngày con cái nở hoa từ vô dục, nhân loại sẽ đẹp đẽ, mạnh mẽ, chu
đáo, nhiệt tình và thông minh tới mức tri thức về cái ta, về cái Trên quá ta, về
Tâm thức Vũ trụ, sẽ không còn rất xa với bất kì ai. Mặc dầu điều này là khó
hình dung, để tôi minh hoạ bằng một thí dụ.
Nếu tôi bảo một
người đang phải chịu chứng mất ngủ rằng anh ta sẽ có khả năng ngủ được ngay lúc
anh ta đặt đầu lên gối, anh ta sẽ rất có thể không tin tôi. Anh ta sẽ bảo tôi
anh ta bao giờ cũng trăn trở trên giường, ngồi dậy, đứng dậy để lần tràng hạt,
hay đếm số, nhưng anh ta không thể ngủ được. Anh ta sẽ nói rằng tôi là kẻ nói dối.
Anh ta sẽ hỏi làm sao có thể ngủ ngay lập tức được, chỉ bởi việc nằm xuống. Anh
ta sẽ phàn nàn điều đó, mặc cho tất cả mọi loại thực nghiệm, anh ta không thể
ngủ ngon, đôi khi không ngủ chút nào trong cả đêm.
Ba mươi đến bốn
mươi phần trăn cư dân của thành phố New York phải uống thuốc ngủ. Và các nhà
tâm thần sợ rằng trong một trăm năm nữa không ai sẽ có khả năng ngủ tự nhiên, rằng
mọi người sẽ phải uống thuốc an thần khi họ lên giường. Nếu đây là trạng thái
hiện tại của lành mạnh tâm trí ở New York, thế thì cùng điều đó sẽ xảy ra ở Ấn
Độ trong hai trăm năm nữa. Các vị lãnh đạo Ấn Độ chưa bao giờ để bị tụt lại xa
đằng sau trong việc sao chép người ngoại quốc. Cho nên chúng ta ăn cắp mọi thứ
khác của họ, làm sao chúng ta có thể dốt nát về điều này được?
Cho nên, trong
thời gian năm trăm năm, hoàn toàn có thể là mọi người trên thế giới sẽ uống thuốc
ngủ trước khi đi nghỉ. Và ngay lập tức sau khi người đó được sinh ra, con trẻ sẽ
muốn một liều an thần thay vì sữa, bởi vì nó thậm chí sẽ không an bình từ ngay
trong bụng mẹ! Thế thì sẽ rất khó để thuyết phục mọi người rằng, năm trăm năm
trước đây, mọi người đơn giản quen nhắm mắt lại và đi ngủ không có thuốc an thần
nào cả. Họ sẽ nói điều đó là không thể có được; họ sẽ hỏi làm sao điều đó có thể
làm được.
Tương tự, sẽ rất
khó thuyết phục những người đã được sinh ra từ vô dục rằng mọi người đã có thời
không trung thực, rằng đã có thời có kẻ cắp và kẻ giết người, rằng con người đã
có thời tự tử, rằng họ đã đầu độc và đâm chém lẫn nhau, rằng họ đã tiến hành
chiến tranh. Họ cũng sẽ không tin rằng những người đã có thời được sinh ra từ
dâm dục thông thường mà không có lấy mảy may sâu sắc hơn tiếp xúc vật lí.
Dục tâm linh có
thể tiến hoá. Cuộc sống mới có thể bắt đầu cho loài người.
Trong bốn ngày
cuối này, tôi đã nói cho các bạn về khả năng của việc đạt tới mức độ mới về sự
tồn tại tâm linh. Các bạn đã lắng nghe bài nói của tôi một cách kiên nhẫn và với
nhiều tình yêu, mặc dầu để nghe những bài nói này một cách an bình phải là điều
rất khó với các bạn; các bạn phải đã cảm thấy ngượng ngùng nhiều lúc.
Một người bạn tới
tôi và bầy tỏ nỗi sợ của anh ấy rằng vài người, cảm thấy rằng một chủ đề như vậy
không nên được nói tới, có thể đứng dậy và kêu lên một tiếng để dừng bài nói lại.
Anh ấy cảm thấy vài người có thể phản đối mạnh mẽ và to mồm việc thảo luận về
chủ điểm như vậy trong công chúng. Tôi đã bảo anh ta thế giới sẽ tốt hơn nếu có
những người bạo dạn như vậy xung quanh. Bạn sẽ tìm đâu ra một người dũng cảm đến
mức người đó sẽ đứng dậy trước công chúng đang tụ tập và đòi diễn giả hãy dừng
bài nói của mình? Nếu người dũng cảm như vậy tồn tại trong đất nước này, thế
thì những bài nói lém lỉnh và vô nghĩa vẫn được phát biểu từ các bục diễn thuyết
cao của đất nước này bởi cả loạt người ngu đã phải chấm dứt từ lâu rồi. Nhưng họ
vẫn chưa dừng và họ sẽ chẳng bao giờ dừng cả. Ngay từ đầu, tôi đã chờ đợi vài
người bạo dạn đứng dậy và yêu cầu tôi chấm dứt bài nói. Thế thì tôi có thể thảo
luận về chủ đề này với anh ta thật chi tiết. Điều đó sẽ là nguồn giải trí lớn
cho tôi.
Và như vậy, với
những bài nói như vậy, về chủ đề như vậy - mặc cho sự kiện là nhiều bạn bè lo sợ
ai đó có thể đứng dậy để phản đối, mặc cho sự kiện là ai đó có thể tạo ra huyên
náo ầm ĩ ở đây - các bạn đã yên lặng lắng nghe. Tất cả các bạn đều rất tốt. Tôi
biết ơn về kiên nhẫn và chăm chú an bình của các bạn.
Để kết luận, từ
trung tâm trái tim tôi, tôi ham muốn rằng thèm khát dục bên trong mỗi chúng ta
có thể trở thành chiếc thang qua đó đạt tới ngôi đền của tình yêu, rằng dục bên
trong mỗi chúng ta có thể trở thành phương tiện để đạt tới siêu tâm thức.
Và cuối cùng,
tôi cúi mình trước điều Tối cao được tôn lên trong tất cả chúng ta.
Xin chấp nhận sự
kính trọng của tôi.
Kết thúc quyển “Từ Dục tới Siêu tâm
thức” – Quay về Mục lục