Giáo huấn của tôi là hướng theo Tình yêu. Tôi có thể vứt bỏ từ Thượng đế rất dễ dàng - chẳng có vấn đề gì nhưng tôi không thể vứt bỏ được từ Tình yêu. Nếu tôi phải chọn giữa từ Tình yêu và Thượng đế, tôi sẽ chọn tình yêu; Tôi sẽ quên tất cả về Thượng đế, bởi vì những người biết tới Tình yêu nhất định biết tới Thượng đế. Nhưng không có điều ngược lại. Những người nghĩ về Thượng đế và triết lí hoá về Thượng đế chẳng bao giờ biết về Tình yêu cả - và sẽ chẳng bao giờ biết về Thượng đế nữa.

Trích “Tình yêu – Tự do – Một mình” - Osho

Bộ sưu tập sách Việt ngữ trên trang Thiền OSHO

Bộ sưu tập sách Việt ngữ trên trang Thiền OSHO



Tôi không nhớ đã sưu tầm các tác phẩm của Người bằng Việt ngữ chính xác tự bao giờ, nhưng đến nay đã được gần 90 quyển:
Tôi đã say mê làm đêm làm ngày bất cứ lúc nào “rảnh rỗi” (Thật ra có ai mà quởn trong thời buổi kinh khủng này). Nhưng một hôm tôi giựt mình tỉnh thức nhờ đọc một câu chuyện nhỏ mà Người đã từng kể trong một bài nói. Hôm nào tìm lại được câu chuyện đó trên trang Thiền OSHO tôi sẽ repost cho bạn xem.
Vậy là từ bữa đó trở đi, mỗi ngày dù bận cỡ nào tôi cũng đọc 1, 2 trang những lúc ngồi trong xe chờ vợ từ chỗ làm ra; 10-15 phút trước khi đi ngủ, hoặc thường nhất là khi vừa đọc vừa gõ lên bàn phím, sửa lỗi chính tả để post bài lên trang Thiền OSHO.
Chẳng biết cho tới ngày nhắm mắt xuôi tay, tôi có đọc hết các tác phẩm của Người không nữa! Đó là còn chưa kể rất nhiều tác phẩm chưa được dịch sang Tiếng Việt!!
Thú thiệt, tôi cũng thích thú đọc các nguyên tác bằng Anh ngữ vì chúng mang cái âm hưởng đặc biệt của Người khi Người nói Tiếng Anh. Tôi cũng hơi tài lanh khi có ý định dịch sang Tiếng Việt các nguyên tác mà tính đến nay còn chưa được các dịch giả rớ đến. Có lẽ vài ngày dịch một trích đoạn và post lên luôn trên trang này. Bạn hữu hãy chờ xem tôi có nói dóc không nhé!

Thôi, hôm nay vậy đủ rồi. Khá khuya.

Osho – Từ Dục tới Siêu tâm thức

Osho – Từ Dục tới Siêu tâm thức


Mục lục
Hết

Osho – Từ Dục tới Siêu tâm thức - Bài nói cuối cùng

Osho – Từ Dục tới Siêu tâm thức
Bài nói cuối cùng


Các bạn đã hỏi nhiều câu hỏi. Một bạn đã hỏi tại sao tôi lại chọn dục làm chủ đề cho bài nói của mình. Để tôi minh hoạ. Có một cuộc họp công khai được tổ chức tại một chợ lớn ở Bombay và một học giả đang nói về Kabir và triết lí của ông ấy. Ông ấy trích dẫn đôi câu: Kabira khada bazarmen liye lukhathi hath; jo ghar barai aapna chale hamare saath. “Kabir đang đứng ở giữa chợ,” ông ấy nói. “Ông ấy vẫy cây gậy và hét to với mọi người, kêu gọi tất cả mọi người: ‘Chỉ những người có lòng dũng cảm đốt nhà mình mới nên theo tôi.’”
Tôi quan sát thấy rằng mọi người đều hài lòng với lời kêu gọi, và tôi phỏng đoán rằng những người cảm thấy dễ nghe thông điệp sâu sắc và quyết liệt của Kabir phải thực sự có dũng cảm để đốt nhà mình và bắt đầu cuộc tìm kiếm chân lí. Với những người như vậy tôi nghĩ là tôi có thể nói thẳng, từ tận đáy lòng. Nhưng, trong thực tế, không người nào trong họ sẵn sàng buông bỏ hay đốt nhà mình. Vấn đề là, nếu Kabir có đó thì ông ấy sẽ không sung sướng gì với tình huống đó chút nào. Tất cả chúng ta ở đây đều thích nghe điều Kabir nói, nhưng không ai trong những người hiện diện khi Kabir đã nói điều đó ba trăm năm trước đây cảm thấy sung sướng về nó. Tôi đã bị giày vò bởi cùng ảo tưởng như Kabir, như Christ. Con người là con vật kì diệu thế - người đó tận hưởng việc nghe nói về những người đã chết, và đe doạ giết chết những người đang sống.
Tôi có nhiệm vụ nói ra điều gì đó về chân lí. Nhưng để nói về chân lí, cần phải phá huỷ những cái phi chân lí mà con người đã chấp nhận làm chân lí. Nhiều nguyên tắc chúng ta chấp nhận như chân lí, trong thực tế lại không đúng. Chừng nào những điều phi chân lí này còn chưa được phơi bầy ra, bước đầu tiên theo hướng chân lí không thể được tiến hành.
Tôi đã được yêu cầu nói về “Tình yêu.” Nhưng tôi cảm thấy rằng chừng nào chúng ta còn bị vướng víu bởi những giả thuyết không đúng nào đó về dục và thèm khát dục, thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có khả năng hiểu hay đánh giá được tình yêu. Chừng nào những niềm tin sai lầm vẫn còn bắt rễ sâu sắc, bất kì điều gì chúng ta nói về tình yêu cũng sẽ là không đầy đủ, sẽ bị phí hoài, sẽ không đúng. Cho nên, để hội tụ vào điều đó, tôi đã nói về thèm khát dục và dục trong buổi họp đặc biệt đó. Tôi đã nói rằng năng lượng dục bản thân nó có thể được biến đổi thành tình yêu.
Nếu người ta mua phân bón, bản thân nó bẩn thỉu và bốc mùi hôi hám, và chất đống nó trên phố ngay trước nhà bạn, nó sẽ làm cho mọi sự thành khó khăn cho bất kì ai đi qua. Nhưng nếu người đó rải phân trong vườn thế thì hạt mầm của người đó sẽ lớn lên. Hạt mầm sẽ trở thành cây và cây sẽ cho hoa và hương thơm của chúng sẽ là lời mời cho tất cả. Khách qua đường sẽ ngợi ca. Bạn có lẽ chưa bao giờ nghĩ về điều đó, nhưng hương thơm của hoa chẳng là gì ngoài mùi hôi hám của phân - vươn lên từ hạt mầm qua cây cối, mùi hôi thối của phân trở thành mùi thơm của hoa. Mùi khó ngửi có thể được biến đổi thành hương thơm dịu ngọt.
Theo cùng cách này, dục có thể trở thành tình yêu. Nhưng làm sao người ghét dục lại trở nên tràn ngập với tình yêu được? Làm sao người ta có thể biến đổi được dục khi người ta là kẻ thù của nó? Và do vậy, tôi nhấn mạnh vào sự cần thiết của việc hiểu thèm khát dục, của việc biết về dục. Hôm nọ, tôi đã chỉ ra rằng dục phải được biến đổi.
Tôi nghĩ rằng những người đã có khả năng cân nhắc câu hỏi về đốt nhà mình thì sẽ sung sướng nghe bài nói ngay thẳng nào đó. Nhưng tôi đã bị lầm một cách đáng tiếc.
Khi tôi kết thúc bài nói hôm nọ, tôi ngạc nhiên thấy rằng tất cả các quan chức, người đã ngồi trên bục, các bạn bè người đã tổ chức cuộc họp này, đã biến mất trong thinh không. Tôi không thấy người nào trong số họ khi tôi bước xuống lối đi giữa để ra về. Tôi nghĩ họ có lẽ đã chạy xô về nhà trong trường hợp nhà họ cháy - nhưng, có thể hơn, họ đã chạy về nhà để dập tắt đám cháy của riêng họ.
Thậm chí không có cả nhà tổ chức chính hiện diện để cám ơn tôi. Bất kì cái mũ trắng nào đã có đó, bất kì người nào có trách nhiệm đã có đó, đều không còn trên bục; họ đã chuồn từ lâu trước khi hoàn tất bài nói. Các nhà lãnh đạo quả thực là loài rất yếu đuối. Và mau lẹ nữa. Họ chạy mất trước khi tín đồ của họ chạy.
Nhưng một số người dũng cảm đã tiếp cận tôi - một số đàn ông và đàn bà tâm linh: một số già, một số trẻ. Tất cả họ đều nói tôi đã nói cho họ những điều không ai đã từng nói trước đây. Họ nói mắt họ đã được mở ra, rằng họ cảm thấy nhiều ánh sáng bên trong hơn. Đã có cái nhìn biết ơn trong mắt họ, trong những giọt nước mắt của niềm vui. Tôi đã được họ yêu cầu hoàn chỉnh loạt bài nói này. Những người trung thực đó đã sẵn sàng để hiểu cuộc sống; họ đã hỏi liệu tôi có nói thêm chi tiết về chủ đề này không, và đây là một trong những lí do cho việc quay trở lại của tôi tới Bombay.
Một đám đông đã tụ tập, thậm chí khi tôi ra khỏi Bhavan, và mọi người chúc mừng tôi về điều tôi đã nói. Thế rồi, mặc dầu những nhà lãnh đạo đã chuồn mất, tôi vẫn cảm thấy rằng công chúng đồng tình với tôi. Và tại chỗ ấy lúc ấy tôi đã quyết định trình bầy chi tiết đầy đủ về chủ đề này. Đó là lí do tại sao tôi đã chọn chủ đề này.
Một lí do khác là ở chỗ những người đã chạy mất khỏi bục lại bắt đầu bảo với mọi người ở mọi nơi rằng tôi đã nói những điều báng bổ thế, rằng tôn giáo chắc chắn là bị phá huỷ, rằng tôi đã nói những điều sẽ làm cho mọi người thành phi tôn giáo! Và do vậy, để đáp lại họ tôi cảm thấy tôi phải trình bầy chi tiết quan điểm của tôi. Tôi cảm thấy họ nên hiểu rằng mọi người không định trở thành phi tôn giáo bởi việc nghe bài nói về dục, mà rằng, ngược lại, mọi người phi tôn giáo bởi vì họ đã không hiểu dục mãi cho tới giờ.
Dốt nát có thể làm cho bạn thành phi tôn giáo; tri thức sẽ không bao giờ làm bạn thành phi tôn giáo cả. Và, tôi nói, nếu tri thức có thể gây ra tính phi tôn giáo, tôi vẫn ưa thích tri thức hơn. Nhưng, tất nhiên, đấy không phải là trường hợp này. Tri thức là tôn giáo, và dốt nát là phi tôn giáo. Và bên cạnh đó, tôn giáo thịnh vượng trên việc thiếu tri thức thì không phải là tôn giáo chút nào - nó là phi tôn giáo - và chúng ta thoát khỏi nó càng sớm càng tốt. Ánh sáng mà thiếu sáng thì không phải là ánh sáng; nó là bóng tối giả trang làm ánh sáng. Không, ánh sáng bao giờ cũng mời ánh sáng; tri thức bao giờ cũng đón chào tri thức. Và nhớ, tôn giáo không là gì ngoài cái tên khác cho việc tìm kiếm tri thức cao thượng, cho việc hiểu về ánh sáng hoàn hảo. Dốt nát, bóng tối, bao giờ cũng có hại.
Nếu nhân loại trở nên đê hèn đi, nếu toàn bộ việc hư hỏng xuất hiện, nếu nhân loại trở nên thần kinh hoàn toàn bởi vì dốt nát của nó về dục, điều đáng trách sẽ không là ở những người suy ngẫm và thiền về chủ đề dục, nhưng ở cánh cửa của cái gọi là người thuyết pháp về đạo đức và tôn giáo. Họ đã cố gắng giữ con người bị nhốt trong dốt nát trong hàng nghìn năm. Nhưng với những nhà lãnh đạo đàn áp đó, nhân loại đáng được tự do khỏi dâm dục từ lâu. Dục là thông thường, nhưng can thiệp của dâm dục có thể được dõi về các guru này. Cản trở này có thể chẳng bao giờ được vượt qua chừng nào dốt nát về dục vẫn còn.
Tôi không thiên về dốt nát tại bất kì mức độ nào của cuộc sống. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng đón chào chân lí với bất kì giá nào, với bất kì nguy hiểm nào. Tôi cảm thấy rằng nếu một tia sáng rải rác của chân lí có thể lan toả nhiều kích động trong mọi người thế thì việc thảo luận toàn bộ phổ của nó là phù hợp, do vậy xoá đi câu hỏi về việc liệu tri thức về dục có làm cho con người thành tôn giáo hay phi tôn giáo. Đây là bối cảnh; đây là lí do tại sao tôi đã chọn chủ đề này. Không có điều này, vấn đề đã không xuất hiện cho tôi để chọn chủ đề này; không có điều này, tôi sẽ không nói về chủ đề này chút nào. Và do vậy, những người đã tạo ra cơ hội này và đưa tôi tới, một cách gián tiếp, để chọn chủ đề này cho những bài giảng đó đều xứng đáng được cám ơn. Do đó, nếu bạn có ý cám ơn tôi vì việc chọn chủ đề này, xin đừng làm như vậy; thay vì thế, chúc mừng những người đang tuyên truyền những điều sai về tôi. Họ đã buộc tôi phải chọn kĩ càng chủ đề này.
Bây giờ đến bản thân chủ đề này.
Một người bạn đã hỏi, “Nếu biến đổi của dục là thành tình yêu, thế thì thầy có ngụ ý rằng tình yêu của bà mẹ với đứa con mình cũng là bởi vì dục không?” Người khác cũng hỏi câu hỏi tương tự.
Sẽ có ích để hiểu điều này. Nếu bạn đã nghe một cách chăm chú, bạn sẽ nhớ lời tôi bảo bạn rằng có một chiều sâu trong sự tồn tại của dục, một chiều sâu mà người thường không đạt tới. Có ba mức độ dục và tôi muốn nói về chúng bây giờ.
Mức độ thứ nhất là mức độ thô. Chẳng hạn, một người đi tới gái mãi dâm. Kinh nghiệm anh ta thu được ở đó không thể sâu sắc hơn mức vật lí. Gái mãi dâm có thể bán thân thể mình nhưng không thể bán trái tim cô ta được, và, tất nhiên, không có cách nào để bán linh hồn cả.
Tại mức độ này, thân thể gặp nhau - như trong hãm hiếp. Trong hãm hiếp không có gặp gỡ của trái tim hay linh hồn; hãm hiếp xảy ra chỉ trên mức độ vật lí. Không có cách nào để hãm hiếp linh hồn; kinh nghiệm về hãm hiếp thuần tuý là vật lí.
Kinh nghiệm chủ yếu về dục là trên mức độ sinh lí, nhưng những người dừng lại ở đó thì không bao giờ đạt tới kinh nghiệm đầy đủ về dục. Họ có thể không bao giờ biết tới những chiều sâu tôi đã nói về chúng. Những ngày này, phần lớn mọi người đều dừng lại tại mức độ vật lí.
Trong mối liên hệ này, điều quan trọng cần biết là trong những quốc gia mà hôn nhân xẩy ra không có tình yêu, dục tù đọng tại mức độ vật lí. Nó không bao giờ có thể tiến bộ vượt ra ngoài điều đó. Những hôn nhân này có thể là của hai thân thể nhưng không bao giờ của hai linh hồn. Tình yêu chỉ có thể tồn tại giữa hai linh hồn. Hôn nhân có thể có ý nghĩa sâu sắc nếu nó xảy ra vì tình yêu, nhưng hôn nhân xảy ra bởi vì những tính toán của các học giả và nhà chiêm tinh, hay từ những cân nhắc về đẳng cấp hay tiền bạc, thì không bao giờ có thể đi sâu hơn tầng vật lí.
Có một ưu điểm cho hệ thống này, theo nghĩa rằng thân thể ổn định hơn tâm trí, và do vậy trong xã hội mà trong đó thân thể là cơ sở cho hôn nhân, hôn nhân sẽ ổn định hơn. Chúng sẽ kéo dài lâu hơn bởi vì thân thể không phải là không ổn định, bởi vì thân thể gần như là nhân tố hằng và thay đổi đi vào rất, rất chậm, gần như không cản nhận nổi về nó. Thân thể là trong trạng thái không đổi, và những xã hội đó mà coi điều quan trọng là ổn định hoá thể chế hôn nhân, để duy trì chế độ một vợ một chồng, để không có khả năng thay đổi nào, đã phải huỷ bỏ đi tình yêu; họ phải chùi sạch tình yêu đi. Bởi vì trái tim là chỗ trú cho tình yêu và trái tim là không ổn định, nên li dị là điều không tránh khỏi trong những xã hội mà hôn nhân được dựa trên tình yêu. Không bao giờ có thể có hôn nhân ổn định trong những xã hội đó bởi vì tình yêu là linh động. Trái tim là thuỷ ngân; thân thể là ổn định, không đổi.
Nếu có hòn đá trong sân nhà bạn, nó sẽ ở cùng vị trí trong buổi tối cũng như nó ở trong buổi sáng, nhưng đoá hoa nở vào buổi sáng và đến tối nó rũ xuống, rụng xuống đất. Đá là vật vô sinh: dù nó là bất kì cái gì vào buổi sáng thì nó cũng sẽ vẫn là cái đó vào buổi tối. Hôn nhân dựa trên mức độ vật lí sẽ đem lại tính ổn định, nhưng nó sẽ không khác như ổn định của tảng đá. Loại hôn nhân này là mối quan tâm của xã hội, nhưng bất lợi cho cá nhân.
Trong những hôn nhân như vậy, dục giữa chồng và vợ không chạm tới các cõi giới sâu sắc hơn; nó đơn thuần trở thành thường lệ máy móc. Hành động này đơn giản được lặp lại thường xuyên và trở thành nhạt nhẽo; chẳng cái gì nhiều hơn xảy ra, và những người tham dự trở nên ngày càng đờ đẫn. Có rất ít khác biệt giữa việc đi tới gái mãi dâm và trong hôn nhân không tình yêu. Bạn mua gái mãi dâm trong một đêm, trong khi bạn mua người vợ trong cả đời mình; đây là khác nhau duy nhất. Khi không có tình yêu thì mua bán được thực hiện - dù là bạn thuê một người phụ nữ một đêm hay thu xếp cho cả đời. Tất nhiên, bởi vì kết giao hàng ngày mà một loại quan hệ đi vào hiện hữu - và chúng ta gọi nó là tình yêu. Đây không phải là tình yêu; tình yêu là cái gì đó khác. Nhưng hôn nhân này đơn giản là của thân thể, và do vậy mối quan hệ chẳng bao giờ có thể đi sâu hơn mức vật lí. Không sách hướng dẫn hay kinh sách nào đã được viết ra về tình yêu, từ Vatsyayana tới Koka Pundit, đều đi sâu hơn vào mức vật lí.
Mức độ khác là tâm lí - của tâm trí, của trái tim. Hôn nhân của các đôi yêu nhau và rồi cưới nhau đi sâu hơn chút ít, chút ít sâu hơn hôn nhân ở mức vật lí. Họ đạt tới trái tim; họ đạt tới chiều sâu tâm lí, nhưng bởi vì chế độ một vợ một chồng nên họ trở lại mức độ vật lí hàng ngày. Thể chế của hôn nhân đã phát triển ở phương Tây trong hai trăm năm qua là dựa trên mức độ này. Và bởi vì điều này, xã hội của họ bị rời ra và đồi bại.
Lí do cho điều này là ở chỗ bạn không thể dựa trên tâm trí được. Hôm nay tâm trí ham muốn điều này; ngày mai nó sẽ đòi hỏi cái gì đó khác. Nó muốn thứ này vào buổi sáng và cái gì đó khác vào buổi tối. Điều nó cảm thấy bây giờ sẽ hoàn toàn khác với cái nó đã cảm thấy chỉ vài khoảnh khắc trước.
Bạn có thể đã nghe nói rằng Huân tước Byron, trước khi ông ấy cuối cùng lấy vợ, đã từng thân mật với ít nhất sáu mươi đến bẩy mươi phụ nữ. Nhưng thậm chí khi ông ấy đi tới nhà thờ sau đám cưới, tay trong tay với cô dâu mới, ông ấy thấy một phụ nữ đẹp đi ngang qua. Ông ấy đã sững sờ bởi sắc đẹp của cô ấy, và trong một chốc ông ấy quên mất người vợ mới, đám cưới mới đây của ông ấy. Nhưng ông ấy cũng phải là người rất trung thực, bởi vì, khi ông ấy vào xe cùng với cô dâu, ông ấy đã nói với cô ấy, “Em có chú ý không? Một điều lạ vừa mới xảy ra ngay đây. Hôm qua, trước khi chúng ta cưới nhau, anh đã lo nghĩ là liệu anh có thực sự có khả năng giữ được em hay không - em đã là người phụ nữ duy nhất trong tâm trí anh - nhưng bây giờ, khi anh thực tế đã cưới em, anh mới thấy một phụ nữ xinh bên đường khi chúng ta ra khỏi cầu thang nhà thờ, và anh đã quên mất em trong một chốc: tâm trí anh bắt đầu đuổi theo người phụ nữ đó; một ý nghĩ thoáng qua tâm trí anh, ‘Anh tự hỏi liệu anh có thể có được người phụ nữ ấy không?’”
Tâm trí rất hay thay đổi, và do vậy các xã hội muốn ổn định cuộc sống gia đình không cho phép hôn nhân được đạt tới bình diện tâm lí, họ cố gắng để dừng hôn nhân tại mức độ vật lí. Họ nói, “Lấy nhau, nhưng không vì tình. Nếu bạn trưởng thành trong tình yêu sau hôn nhân, thì tốt; nếu không, để mọi thứ như chúng có thể thế.”
Tính ổn định là có thể trên mức độ vật lí nhưng trên bình diện tâm lí điều đó rất khó. Kinh nghiệm dục là sâu sắc hơn và tinh tế hơn trên bình diện tinh thần, và do đó kinh nghiệm ở phương Tây đã sâu sắc hơn ở phương Đông. Các nhà tâm lí học phương Tây, từ Freud tới Jung, đã viết về giai đoạn thứ hai này của dục, về mức độ tâm lí. Nhưng dục tôi đang nói tới lại ở mức thứ ba, mà mãi cho tới nay, vẫn còn chưa được hiểu ở cả phương Đông lẫn phương Tây. Mức độ thứ ba đó của dục là mức tâm linh.
Bởi vì thân thể có quán tính nên có một loại ổn định ở mức vật lí. Cũng có một loại ổn định ở mức tâm linh, bởi vì không có thay đổi tại mức độ đó: mọi thứ đều bình thản ở đó; tại đó, nó là vĩnh hằng. Giữa hai giai đoạn này tồn tại mức độ tâm lí. Nó là không ổn định, giống như kí ức.
Kinh nghiệm của phương Tây là trên mức độ này, và do vậy hôn nhân tan vỡ và gia đình tan rã. Hôn nhân được sinh ra từ gặp gỡ của tâm trí không thể tạo ra tình thế gia đình ổn định, và bây giờ khuynh hướng ở phương Tây là nhằm vào li dị. Li dị bây giờ xuất hiện quãng hai năm, nhưng điều này cũng có thể trở thành hai giờ! Tâm trí người ta có thể thay đổi thậm chí trong một giờ! Xã hội ở phương Tây bị rời ra. So sánh với điều đó, xã hội phương Đông ổn định hơn, nhưng phương Đông vẫn không thể nào thăm dò được những chiều sâu tinh tế và cao thượng của dục.
Đàn ông và đàn bà, người có thể gặp gỡ trên mức độ tâm linh, người có thể hợp nhất về tâm linh - thậm chí một lần - cảm thấy họ đã hợp nhất cho vô hạn kiếp sống sắp tới. Có linh động sâu sắc; cực lạc vô thời gian và thuần khiết là của hồi môn đám cưới.
Dục tôi đang nói tới là dục tâm linh, kinh nghiệm thiêng liêng. Tôi ham muốn khuynh hướng tâm linh về dục.
Và nếu bạn hiểu điều tôi đang nói, bạn sẽ nhận ra rằng tình yêu của mẹ với con trai cũng là một phần của dục tâm linh. Bạn sẽ nói rằng đây là phát biểu ngược đời. Bạn sẽ hỏi có thể có mối quan hệ dục nào giữa mẹ và con trai? Để hiểu điều này đầy đủ, chúng ta phải xem xét lại nhiều khía cạnh khác của dục và tương tác của nó trong các mối quan hệ giữa chồng, vợ và con.
Như tôi đã bảo với bạn, đàn ông và đàn bà chỉ gặp gỡ có một chốc. Linh hồn của họ cũng gặp gỡ nhưng chỉ một khoảnh khắc, trong khi đứa trẻ vẫn còn trong bụng mẹ những chín tháng. Trong thời kì này sự tồn tại của nó là một với sự tồn tại của người mẹ. Chồng cũng gặp vợ tại mức độ này - nơi chỉ có sự tồn tại, nơi chỉ có sự hiện hữu - nhưng nó chỉ là trong một khoảnh khắc và thế rồi họ phân tách. Chồng và vợ gặp nhau trong một khoảnh khắc và thế rồi nhảy ra xa, và do vậy thân mật mà người mẹ có với đứa con mình là không thể có với chồng mình; nó không thể thế được.
Đứa trẻ trong bụng mẹ thở hơi thở của mẹ, tim nó đập qua tim của mẹ. Đứa trẻ là một với máu và cuộc sống của người mẹ: nó chưa có sự tồn tại cá nhân; nó vẫn là một phần của người mẹ. Không đàn ông nào có thể thoả mãn người phụ nữ nhiều như đứa con có thể thoả mãn; không người chồng nào có thể cho vợ mình cái cảm giác sâu sắc về sự thân thiết mà đứa con có thể cho cô ấy. Cũng vậy, sự trưởng thành đầy đủ của phụ nữ là không đầy đủ chừng nào cô ấy chưa trở thành người mẹ. Chừng nào cô ấy còn chưa đạt tới tình mẹ, toả sáng đầy đủ của nhân cách phụ nữ, nở hoa tối đa của cái đẹp của cô ấy là không thể có được. Phụ nữ không bao giờ có thể bằng lòng hoàn toàn chừng nào cô ấy còn chưa trở thành người mẹ, chừng nào cô ấy còn chưa biết tới mối quan hệ sâu sắc, tâm linh vẫn tồn tại giữa mẹ và con.
Và cùng với điều này, nhớ trong đầu rằng ngay khi phụ nữ trở thành người mẹ thì mối quan tâm của cô ấy trong dục tự động tàn đi. Cô ấy đã uống tình mẹ sâu sắc; trong chín tháng cô ấy đã cùng tồn tại với một cuộc sống mới đang đập, và bây giờ cô ấy hầu như không có hấp dẫn tới dục. Vào lúc người chồng bối rối bởi lãnh đạm của cô ấy, bởi vì việc trở thành người bố của anh ta chẳng thay đổi gì thái độ của anh ta đối với dục theo bất kì cách nào; anh ta không có mối quan hệ sâu sắc với quá trình sinh con. Với cuộc sống mới được sinh ra, người bố không có cảm giác về cái một tâm linh. Việc trở thành mẹ đem lại sự thay đổi cơ bản trong phụ nữ, nhưng tính chất bố đơn giản là một thể chế xã hội. Đứa trẻ có thể lớn lên không cần bố, nhưng nó có mối quan hệ bắt rễ sâu sắc với người mẹ.
Một loại khoẻ mạnh tâm linh mới trút đầy người phụ nữ sau việc sinh con. Nếu bạn nhìn vào người phụ nữ đã trở thành người mẹ và vào người chưa trở thành mẹ, bạn sẽ cảm thấy khác biệt trong nhân cách của họ, theo cảm giác thoải mái họ phát ra. Trong người mẹ bạn sẽ thấy nhiệt tình, bình thản - loại bình thản bạn thấy trong dòng sông đã đạt tới đồng bằng - nhưng trong người chưa trở thành mẹ bạn sẽ cảm thấy một loại linh hoạt sùng sục giống như con suối vẫn chảy qua núi non - sôi ùng ục, ầm ĩ, tràn bờ, xô về phía đồng bằng. Phụ nữ trở nên tĩnh lặng, bình thản và thanh bình bên trong sau khi cô ấy trở thành mẹ.
Trong mối liên quan này tôi cũng muốn phát biểu rằng những phụ nữ, người buồn phiền với đam mê dục, như thông thường ở phương Tây ngày nay, là những phụ nữ không muốn trở thành mẹ. Sau thời kì làm mẹ, sự hấp dẫn của phụ nữ về dục bỗng nhiên giảm đi, và phụ nữ phương Tây người từ chối trở thành mẹ thì đang làm như vậy bởi vì cô ấy biết rằng ngay khi cô ấy trở thành mẹ cô ấy sẽ mất mối quan tâm vào dục. Cô ấy ủng hộ cho say mê trong dục bằng việc không trở thành mẹ.
Các chính phủ của nhiều nước phương Tây đang quan ngại về điều này. Nếu điều này còn tiếp tục, điều gì sẽ xảy ra cho dân số của họ? Phương Đông lo nghĩ về việc tăng dân số, nhưng một số quốc gia phương Tây lại sợ việc giảm dân số. Chẳng thể làm gì được nếu phụ nữ quyết định không trở thành mẹ bởi vì họ biết họ sẽ mất mối quan tâm tới dục. Chương trình kế hoạch hoá gia đình có thể phải được thực hiện theo luật, nhưng không luật nào có thể buộc phụ nữ trở thành mẹ. Vấn đề này của các nước phương Tây còn rắc rối hơn là vấn đề bùng nổ dân số của chúng ta. Chúng ta có thể dừng việc tăng dân số bằng việc bắt buộc, hay bằng pháp luật. Nhưng các nước phương Tây không thể tăng dân số của họ bằng luật pháp được. Trong hai trăm năm nữa vấn đề này sẽ phát triển thành tỉ lệ khổng lồ ở phương Tây, và dân số trong các nước phương Đông, tăng lên theo cách nhảy vọt, có thể đưa các nước này tới việc chi phối cả thế giới. Đồng thời, với việc chuyển thời gian, nhân lực phương Tây sẽ giảm đi. Họ sẽ phải làm cho phụ nữ đồng ý trở thành mẹ lần nữa.
Một số các nhà tâm lí của họ đã bắt đầu để lộ ra sự thiên về tảo hôn. Người phụ nữ vào độ chín muồi không định quan tâm tới việc trở thành người mẹ - cô ấy sẽ quan tâm nhiều hơn tới thú vui dục - cho nên các nhà tâm lí của họ đang khuyên mọi người tảo hôn. Thế thì, trong những trường hợp đó, phụ nữ sẽ không có bất kì ý tưởng nào khác trước khi họ trở thành người mẹ. Đây cũng là một trong những lí do đằng sau việc tảo hôn ở phương Đông; họ biết cô gái sẽ không muốn cưới và trở thành mẹ khi cô ấy đã trở thành người lớn, khi cô ấy trở nên có ý thức về dục, khi cô ấy đã phát triển nếm trải về nó. Tâm tính này, hấp dẫn mênh mông này về dục, tồn tại trong phụ nữ cho tới khi họ biết điều họ sẽ đạt tới bởi việc trở thành người mẹ. Nhưng điều này họ có thể hiểu được chỉ sau khi đạt tới tình mẹ. Không có cách nào để có ý niệm mơ hồ về nó trước khi thực tế trở thành mẹ.
Tại sao phụ nữ vừa lòng thế sau khi cô ấy đã trở thành người mẹ? Đấy là vì cô ấy đã có kinh nghiệm thiêng liêng, không phá vỡ nổi về dục tâm linh với đứa con mình. Và chính bởi vì điều này mới có thân thiết mạnh mẽ thế giữa mẹ và con. Người phụ nữ sẽ hi sinh cuộc sống của mình cho con, nhưng không thể nào hình dung nổi việc lấy đi cuộc sống của đứa con mình. Người vợ có thể giết chồng - điều đó xảy ra thường xuyên - và thậm chí nếu cô ấy không thực sự làm điều đó, cô ấy có thể tạo ra hoàn cảnh tại nhà mà rốt cuộc cũng là cùng việc đó. Nhưng đối với đứa con mình, cô ấy không bao giờ có thể thậm chí nghĩ về việc như vậy. Đấy là vì mối quan hệ với đứa con mới rất sâu sắc thế, rất thân thiết thế.
Theo cùng một mạch, tôi muốn nói rằng khi người phụ nữ phát triển mối quan hệ sâu sắc với chồng mình, người chồng trở thành con cô ấy. Thế thì anh ta không còn là chồng chút nào nữa.
Có nhiều đàn ông và đàn bà ngồi đây tại buổi tụ tập này. Tôi muốn hỏi các đàn ông hiện ở đây liệu họ có hành xử hệt như đưa trẻ nhỏ làm với mẹ chúng không khi họ đang trong tâm trạng tình yêu toàn bộ hướng tới vợ mình. Bạn có biết tại sao tay đàn ông lại vô ý thức đưa về vú người đàn bà không? Đấy chính là tay của đứa trẻ nhỏ mò tới vú mẹ. Ngay khi đàn ông bị chinh phục bởi tình yêu của đàn bà, tay anh ta tự động lần tới vú cô ấy. Tại sao? Vú có mối quan hệ gì với tình yêu? Hay với dục? Dục không có quan hệ thực với vú chút nào, nhưng đứa trẻ có mối liên hệ sâu sắc với bầu vú mẹ. Từ tuổi thơ, nó đã đắm chìm trong nhận biết rằng chỗ móc nối của nó là bầu vú, đường huyết mạch. Khi đàn ông tràn ngập với tình yêu sâu sắc, anh ta trở thành đứa con!
Và tay người phụ nữ để đi đâu? Tay cô ấy đưa lên đầu người đàn ông; ngón tay cô ấy bắt đầu vuốt ve tóc anh ta: đây là kí ức về đứa con cô ấy; cô ấy đang vuốt ve tóc con mình. Đó là lí do tại sao, nếu tình yêu nở hoa đầy đủ ở mức độ tâm linh, người chồng trở thành đứa con; đó là lí do tại sao người chồng phải trở thành đứa con. Thế thì người ta biết rằng người ta đã đạt tới tầng thứ ba của dục, mức tâm linh. Nhưng chúng ta hoàn toàn dốt nát về mối quan hệ này.
Mối quan hệ giữa chồng và vợ là sự bắt đầu của cuộc hành trình và không kết thúc. Và nhớ, bởi vì nó là cuộc hành trình, nên chồng và vợ bao giờ cũng trong trạng thái căng thẳng. Cuộc hành trình bao giờ cũng khó chịu; an bình chỉ tìm thấy ở nơi đến. Chồng và vợ không bao giờ bình tĩnh bởi vì họ bao giờ cũng di chuyển, bao giờ cũng trên đường - và phần lớn mọi người đều tàn lụi trên con đường, chẳng bao giờ đạt tới đích cả. Bởi vì điều này, nên bao giờ cũng có trạng thái xung đột giữa chồng và vợ; có tranh chấp suốt ngày đêm. Và đây là điều chúng ta gọi là “tình yêu.”
Điều không may là cả chồng lẫn vợ đều không hiểu nguyên nhân thực của sự căng thẳng, của xung đột. Mỗi người đều nghĩ họ đã chọn đôi lầm. Chồng nghĩ mọi thứ đáng sẽ tốt hơn nếu anh ta cưới người đàn bà khác, còn vợ nghĩ mọi thứ chắc có lẽ đã tốt nếu cô ấy cưới người đàn ông khác. Tôi muốn bảo bạn rằng đây là kinh nghiệm của mọi đôi trên thế giới này. Nếu như bạn được cho cơ hội để đổi chồng vợ mình, tình huống chắc cũng không thay đổi chút gì. Nó sẽ vẫn cũng như việc đổi vai khi khênh quan tài ra nghĩa địa vậy: bạn sẽ cảm thấy nhẹ vai trong một chút, nhưng thế rồi bạn sẽ để ý rằng trọng lượng lần nữa lại trở thành như cũ. Kinh nghiệm ở phương Tây, nơi li dị cực kì phát triển, là ở chỗ vợ mới, trong một thời gian rất ngắn, lại chứng tỏ giống hệt như vợ cũ - và trong vòng nửa tháng, chồng mới cũng tỏ ra là như chồng cũ thôi. Nguyên nhân không tìm được ở trên bề mặt, mà ở sâu bên dưới. Nguyên nhân chẳng có liên quan gì tới cá nhân, với đàn ông hay đàn bà; nguyên nhân là ở chỗ hôn nhân là cuộc hành trình, quá trình. Hôn nhân không phải là mục tiêu chẳng phải là mục đích. Mục đích sẽ chỉ được đạt tới khi người phụ nữ trở thành mẹ và người đàn ông trở thành con.
Một người bạn đã hỏi điều gì đó trong mối quan hệ với câu hỏi này. Anh ấy nói rằng có thể hỏi tôi về Thượng đế, nhưng không về dục. Anh ấy nói rằng anh ấy và một số bạn bè anh ấy đã tới đây để nghe về Thượng đế và do đó tôi nên nói về Thượng đế. Có lẽ họ không nhận biết rằng thật là vô ích mà đi hỏi ai đó về Thượng đế khi họ thậm chí không xem xét tới thẩm quyền về dục. Bạn có hỏi ai đó về đỉnh vàng son mà người đó lại chẳng biết gì về nền cơ sở trước nhất không? Nếu điều tôi phải nói về dục là không chấp nhận được với bạn, thế thì bạn không nên hỏi tôi về Thượng đế. Nếu tôi cho rằng nói về bước đầu tiên là không thích hợp, thế thì làm sao tôi có khả năng nói về bước cuối cùng?
Tâm lí đằng sau câu hỏi này là ở chỗ kama và Rama, sự thèm khát dục và Trời, mãi cho tới nay, đã được coi là kẻ thù của nhau. Mãi cho tới nay, người ta cứ coi rằng những người tìm kiếm tôn giáo không thể có liên quan gì tới dục, và rằng những người đào sâu vào dục thì chẳng thể có gì chung với tính chất tâm linh cả. Cả hai đều ảo tưởng. Cuộc hành trình tới kama cũng là cuộc hành trình tới Rama. Cuộc hành trình tới thèm khát dục cũng là cuộc hành trình tới ánh sáng. Sự hấp dẫn cực kì về dục cũng là việc tìm kiếm sự thăng hoa.
Bởi vì con người đã bị bao bọc hoàn toàn trong dục nên người đó chẳng bao giờ cảm thấy cuộc hành trình của mình được hoàn tất. Chừng nào mà Rama còn chưa đạt tới được, chừng nào mà thăng hoa còn chưa được đạt tới, tìm kiếm của người đó sẽ không bao giờ dừng cả. Và cuộc truy tìm của những người chỉ trích kama và bắt đầu lên đường đạt tới Rama thì không phải là tìm kiếm đích thực về Thượng đế; nó không là gì khác ngoài khuynh hướng thoát li thực tế nhân danh Rama. Họ che giấu bản thân mình đằng sau Rama để thoát li khỏi kama. Điều này là vì họ sợ đến chết về dục, bởi vì các kiếp sống của họ ở trong trạng thái thường xuyên khuấy động về dục. Họ tìm kiếm nơi trú ngụ trong việc nhẩm to tên của Rama, “Rama, Rama, Rama”, để cho họ có thể quên đi kama, về dục.
Bất kì khi nào bạn quan sát một người tụng tên Rama, nhìn vào người ấy thật gần: đằng sau việc lẩm nhẩm Rama sẽ là tiếng vọng của kama; nhận biết về dục đang hiện diện ở đấy. Nếu một phụ nữ đi vào trong tầm nhìn thì họ sẽ bắt đầu nói câu tràng hạt của mình - “Rama, Rama, Rama,” - xoay nhanh chuỗi tràng hạt đó với tốc độ lớn và tụng tên Rama đến tận đỉnh phổi. Kama bên trong thúc đẩy họ từ bên trong, và những kẻ đào thoát này cố gắng bỏ qua nó, dìm nó xuống, ngăn chặn nó bằng việc tụng tên Rama. Nếu thủ thuật đơn giản ấy có thể thay đổi được cuộc sống người ta, thì thế giới này đã thay đổi tốt hơn từ lâu lắm rồi. Tôn giáo không dễ dàng đạt tới như thế.
Điều bắt buộc là phải biết kama nếu bạn muốn đạt tới Rama, nếu bạn muốn đạt tới điều Cao thượng. Tại sao? Ta hãy lấy thí dụ về một người muốn tới Calcutta từ Bombay. Trước hết, người đó thu lấy thông tin về Calcutta - nó ở đâu, nó ở hướng nào - nhưng nếu ngưới đó thậm chí không biết Bombay ở đâu, nó nằm đâu trong mối quan hệ với Calcutta, thế thì làm sao người đó có thể thành công trong sứ mệnh của mình? Để đạt tới Calcutta từ Bombay, điều tuyệt đối cần thiết là phải biết Bombay ở đâu trước nhất. Nếu tôi không nhận biết Bombay ở đâu, thì tất cả mọi thông tin về cách đến Calcutta từ Bombay đều vô giá trị. Sau rốt, tôi phải bắt đầu từ Bombay; cuộc hành trình của tôi là khởi đầu từ Bombay. Điểm bắt đầu bao giờ cũng tới trước. Cái đích bao giờ cũng tới sau.
Bạn đang đứng ở đâu bây giờ?
Bạn nói bạn khát khao làm cuộc hành trình tới Rama? Tốt.
Bạn nói bạn ham muốn đạt tới Thượng đế? Rất tốt.
Nhưng bạn đang đứng ở đâu bây giờ?
Bây giờ bạn đang bị mắc kẹt trong thèm khát dục; bây giờ bạn đang bị mắc kẹt trong dục - và chính từ quan điểm này, từ nơi bạn đang ở bây giờ, bạn phải tiến bước đầu tiên đi lên. Điều bắt buộc là bạn nhận ra nơi bạn đang ở bây giờ. Bằng việc chấp nhận sự kiện đơn giản này, bằng việc hiểu thực tại mắc kẹt này, bạn cũng có thể thấy khả năng cho tương lai. Để biết cái bạn có thể đạt tới, điều quan trọng là biết bạn đang là gì.
Để đạt tới bước cuối cùng, điều cần thiết là đi bước thứ nhất - bởi vì bước thứ nhất là để lát đường cho bước thứ hai và, chung cuộc, cho bước cuối cùng của cuộc hành trình. Nếu bước thứ nhất mà bước theo hướng sai, thì bạn có thể chẳng bao giờ đạt tới cái đích đã chủ định của mình; thay vì thế bạn có thể kết thúc trong vùng hoang dã. Và do vậy, nếu bạn muốn đạt tới điều tối thượng, thì điều quan trọng cho bạn là hiểu kama hơn là hiểu Rama. Bạn không thể đạt tới Thượng đế mà không trước hết hiểu dục.
Tôi cũng được thông báo qua một bức thư rằng ý kiến của Freud về dục có thể có giá trị và chấp nhận được, nhưng họ hỏi ý kiến của tôi có thể được coi là đúng và chân thành không.
Làm sao bạn có thể quyết định được liệu tôi là người trung thực và chân thành hay không? Trong mối nối này, bất kì cái gì tôi nói, nó đều sẽ không quyết định được bởi vì bản thân tôi là chủ đề cho sự xem xét. Nếu tôi nói tôi trung thực thì điều đó là vô nghĩa. Cũng vô nghĩa nốt nếu tôi nói tôi không trung thực, bởi vì chính chủ đề đang tranh luận là liệu người đưa ra những phát biểu này có là người trung thực hay không. Cho nên bất kì điều gì tôi nói trong ngữ cảnh này đều sẽ vô nghĩa; nó sẽ vô ích. Tôi nói, các kinh nghiệm với dục và tìm ra cho bạn liệu tôi là trung thực hay không. Bạn sẽ đi tới hiểu biết chân lí trong phát biểu của tôi khi bạn đạt tới kinh nghiệm cho chính bạn. Không có cách nào khác.
Chẳng hạn, nếu tôi nói với bạn về kĩ thuật bơi nào đó, bạn có thể hoài nghi liệu phương pháp của tôi có khả thi hay không. Lời đáp của tôi cho điều đó sẽ là yêu cầu bạn tới chỗ bạn có thể lội vào dòng sông. Nếu lời khuyên của tôi có ích trong việc giúp bạn bơi qua sông, thế thì bạn sẽ biết rằng điều tôi đã nói chẳng vô ích cũng không phải là không chân thành.
Còn việc liên quan tới Freud, tôi muốn giải thích cho người bạn đặc biệt này rằng hoàn toàn có thể là Freud không nhận biết về điều tôi đang nói cho các bạn ở đây. Freud là một trong vài người nhìn xa đã hướng dẫn nhân loại đi theo hướng giải phóng dục, nhưng ông ấy không có bất kì ý tưởng nào rằng dục tâm linh tồn tại. Tri thức mà Freud đã hệ thống hoá là tri thức về dục ốm yếu; nghiên cứu của ông ấy là với bệnh hoạn. Freud là một loại bác sĩ và những phát hiện của ông ấy đã được dùng như cách trị liệu, phân phát nhỏ giọt cho người ốm. Freud đã không nghiên cứu dục bình thường, lành mạnh. Ông ấy là một học giả nghiên cứu giải quyết các căn bệnh, sự truỵ lạc, và tâm trí ông ấy chủ yếu hướng về trị liệu, chữa chạy.
Do đó, nếu bạn nhất quyết xác nhận tính chân lí của điều tôi nói, thì bạn sẽ phải quay sang triết lí của Mật tông. Mật tông đã tiến hành sớm sủa những cố gắng để tâm linh hoá dục, và, mặc dầu chúng ta cấm việc suy nghĩ về Mật tông từ hàng nghìn năm trước đây, những tượng đài ở Khajuraho và đền đài ở Puri và Konarak vẫn là những vật chứng sống. Bạn đã bao giờ ở Khajuraho chưa? Bạn đã bao giờ thấy những hình ảnh ở đó chưa? Nếu rồi, thế thì bạn phải đã kinh nghiệm hai hiện tượng kì diệu. Thứ nhất, thậm chí sau khi thấy những hình ảnh các đôi trần truồng đang giao hợp, bạn sẽ không cảm thấy bất kì cảm giác thô bỉ tục tĩu nào; bạn sẽ không thấy bấy kì cái gì xấu hay tồi trong những hình ảnh đàn ông đàn bà trần truồng giao hợp. Và điều thứ hai là ở chỗ bạn sẽ kinh nghiệm cảm giác an bình. Cảm giác về sự thiêng liêng sẽ bao bọc lấy bạn. Phản ứng của bạn sẽ làm bạn ngạc nhiên. Những người thấy đã tạo ra các bức tượng này chính là những người đã thấy và biết về dục tâm linh một cách mật thiết.
Nếu bạn thấy một người đang bị cuốn hút trong dục, nếu bạn nhìn vào khuôn mặt người đó và vào mắt người đó, thì người đó sẽ có vẻ xấu xí, đáng sợ, thú vật; bạn sẽ thấy sự thèm khát rối loạn và dữ tợn ở đó. Khi người phụ nữ thấy người đàn ông tiến lại gần cô ấy, và anh ta tràn đầy những thèm khát, thậm chí anh ta có yêu mến cô ấy, cô ấy cũng sẽ thấy kẻ thù trong anh ta chứ không phải người bạn. Anh ta thậm chí sẽ không có vẻ con người với cô ấy; anh ta sẽ giống như sứ giả từ địa ngục. Nhưng trên khuôn mặt của những bức tượng đó bạn sẽ thấy hình bóng vinh quang của Phật, sự phản chiếu cao thượng của Mahavira. Sự điềm tĩnh và thanh thản trên gương mặt của những bức tượng đó là của samadhi. Sự thiêng liêng thanh thản phát ra từ họ. Chẳng khác gì con sóng của an bình vĩnh hằng bao quanh bạn nếu bạn thiền về những bức tượng này. Bạn sẽ kính nể.
Nếu bạn sợ rằng dục sẽ tràn ngập bạn sau khi thấy các bức tượng trần truồng ấy, tôi xin bạn, đến thẳng Khajuraho không chậm trễ gì hơn. Khajuraho là tượng đài duy nhất trên trái đất này, ấy vậy mà về sau các nhà đạo đức như Shree Purshottamdas Tandon và đồng nghiệp của ông ấy lại có ý kiến rằng những bức tường của Khajuraho nên được che bằng lớp đất nung bởi vì họ tin những hình ảnh đó làm cho mọi người động dục. Tôi kinh hãi khi nghe thấy điều này! Những người xây dựng Khajuraho đã có mục đích, và đó là ở chỗ nếu mọi người ngồi trước những bức tượng đó và thiền về chúng, họ sẽ thoát khỏi khao khát dục. Trong hàng nghìn năm nay những hình ảnh đó đã là chủ đề cho thiền. Nó nêu ra tấm gương kì diệu cho chúng ta, rằng những người thái quá về dục nên được yêu cầu đi tới các ngôi đền Khajuraho, để thiền về các tượng này, để làm mất mình trong chúng.
Mặc dầu chúng ta thường quan sát cùng chân lí này trong kinh nghiệm con người thông thường, chúng ta vẫn không thực sự có khả năng thấy nó. Chẳng hạn, nếu bạn đi ngang qua và thấy hai người đang cãi nhau trên đường, bạn cảm thấy muốn dừng lại và quan sát trận khẩu chiến. Tại sao? Bạn đã bao giờ nghĩ về điều bạn thoát ra khỏi việc nhìn người khác đánh nhau chưa? Dẹp cả đống việc sang bên, bạn sẽ dừng lại đến nửa giờ để quan sát mọi người đánh nhau. Bạn cũng đi xem đấm bốc nữa. Tại sao? Bạn có lẽ không nhận biết rằng chúng có hiệu quả trị liệu. Bằng việc quan sát hai người đánh nhau, bản năng đánh nhau ăn sâu vẫn tồn tại trong bạn được thoả mãn. Nó tan biến đi; nó bị tống ra, và bạn trở nên bình tĩnh hơn. Nếu người ta ngồi và thiền với tâm trí an bình theo những hình ảnh giao hợp, cái điên cuồng bên trong, cái dâm dục điên khùng của con người có thể bay hơi đi.
Một người tới bác sĩ tâm thần với một vấn đề: anh ta rất lấy làm khó chịu với ông chủ mình. Nếu ông chủ anh ta nói điều gì với anh ta là anh ta lập tức trở nên giận dữ và cảm thấy muốn tháo giầy ra và đánh vào ông chủ.
Nhưng, làm sao bạn có thể đánh ông chủ mình được? Có người nào lại không cảm thấy thích đánh ông chủ mình vào chỗ nào đó không? Nhân viên như vậy cũng hiếm hoi đấy.
Trong bất kì trường hợp nào, người này cứ kìm nén ham muốn đánh ông chủ mình, nhưng anh ta bắt đầu phát triển phức cảm về nó, và sợ mình có thể thực tế đánh ông chủ một ngày nào đó, anh ta bắt đầu để giầy ở nhà. Nhưng anh ta không thể quên đôi giầy được. Bất kì khi nào anh ta thấy ông chủ mình, tay anh ta lại tự động đưa về chân. Nhưng may mắn là đôi giầy đã được bỏ ở nhà, và anh ta cảm thấy chút ít dễ dàng hơn bởi vì anh ta biết rằng một hôm, trong cơn điên cuồng, anh ta chợt có thể tháo giầy ra và đánh nó vào ông chủ.
Nhưng anh ta đâu có tự giải phóng được mình khỏi đôi giầy chỉ bởi việc để chúng ở nhà; chúng tiếp tục hiện ra lù lù trong tâm thức anh ta. Nếu anh ta đang nghịch với cái bút chì, anh ta vẽ giầy lên giấy; trong lúc rỗi rãi, anh ta phác hoạ hình dáng chiếc giầy. Chiếc giầy choán toàn bộ ý nghĩ anh ta, và anh ta sợ đến chết về việc anh ta sẽ tấn công ông chủ một khi nào đó.
Tại nhà, anh ta bảo gia đình mình là tốt hơn cả là anh ta không đi làm nữa. Bây giờ, điều kiện tâm trí của anh ta đến mức là anh ta không cần chiếc giầy riêng nữa: anh ta có thể lấy giầy của bất kì ai để ném vào ông chủ; tay anh ta thậm chí đã bắt đầu đưa xuống chân của đồng nghiệp. Đến điểm này, gia đình anh ta quyết định đã đến lúc phải đưa anh ta đến nhà tâm thần. Và thế là anh ta tới.
Bác sĩ tâm thần nói bệnh của anh ta chẳng là gì để phải lo nghĩ nhiều, rằng bệnh đó là chữa được. Ông ta khuyên anh chàng hãy treo bức ảnh của ông chủ tại nhà rồi đánh giầy vào đó năm lần mỗi sáng. Bức ảnh bị đánh một cách đều đặn, trước khi anh ta tới văn phòng, và hơn nữa, anh ta không bỏ lỡ ngày nào. Cái lễ này được tôn trọng hàng ngày, cũng giống như cầu nguyện buổi sáng, và thế rồi, sau khi trở về từ văn phòng mỗi ngày, quá trình này lại được lặp lại.
Phản ứng đầu tiên của người này là, “Vô nghĩa làm sao!” Mặc dầu anh ta đã ngạc nhiên với cái ý tưởng này, anh ta vẫn cảm thấy rất sung sướng về nó. Bức ảnh treo đó và, theo đó, anh ta bắt đầu buổi lễ theo qui định.
Vào ngay ngày đầu tiên, khi anh ta tới văn phòng sau khi đánh bức ảnh năm lần, anh ta để ý một cảm giác lạ: anh ta đã không cảm thấy giận ông chủ như anh ta đã giận. Và, trong vòng nửa tháng, anh ta đã trở nên rất lễ phép với ông chủ. Ông chủ anh ta cũng để ý thấy thay đổi trong anh ta, nhưng tất nhiên ông ta đâu biết điều vẫn đang xảy ra. Ông ta cũng được nhân viên này nói cho rằng anh ta đã trở nên rất lễ phép, rất vâng lời và rất tốt thực sự về sau và ông ấy muốn biết điều gì đã xảy ra. Nhân viên này đáp, “Xin đừng hỏi tôi về điều đó nếu không mọi thứ sẽ rối tinh lên. Tôi không thể nói cho ông được.”
Chân lí đằng sau câu chuyện này là gì? Liệu mọi thứ có thể được đạt tới chỉ bởi việc đánh bức ảnh không? Có đấy - bằng việc đánh bức ảnh, ám ảnh của người này về việc đánh ông chủ bằng chiếc giầy đơn giản tan biến đi, mờ nhạt đi.
Những ngôi đền giống như đền ở Khajuraho, Konarak và Puri nên có ở mọi xó xỉnh và ngóc ngách của đất nước này. Chẳng có gì quan trọng để tìm kiếm ở các đền khác; chẳng có gì khoa học, không kế hoạch, không ý nghĩa trong chúng. Chúng không cần chút nào cả. Nhưng sự tồn tại của các đền Khajuraho và những đền khác giống như chúng lại tràn đầy ý nghĩa. Bất kì ai có tâm trí quá băn khoăn về dục đều nên tới đó và thiền. Khi anh ta trở lại, anh ta sẽ sáng lên trong tim; anh ta sẽ được an bình.
Những người theo Mật tông cố gắng biến đổi dục thành tâm linh, nhưng những người thuyết giáo về đạo đức trong đất nước này không cho phép thông điệp đó tới đám đông. Đây cũng là những người muốn chấm dứt bài nói của tôi.
Trong lần tôi trở lại Jabalpur, ba ngày sau bài nói của tôi ở thính phòng Bharatiya Vidya Bhavan đây tại Bombay, tôi đã nhận được một bức thư từ một người bạn bảo tôi rằng nếu tôi còn tiếp tục những bài nói này thì tôi sẽ bị bắn. Tôi muốn đáp lại anh ta, nhưng những quí vị hung hăng dường như là kẻ hèn nhát: anh ta chẳng kí vào thư cũng không cho địa chỉ; anh ta có lẽ sợ tôi sẽ báo vấn đề này với cảnh sát. Dẫu sao đi chăng nữa, nếu anh ta có mặt ở đây, thì anh ta cũng nên chấp nhận lời đáp của tôi bây giờ. Thậm chí nếu anh ta có ở đây, tôi cũng chắc chắn anh ta hoặc là ẩn sau bức tường hay cây cối. Nếu anh ta ở đâu đó xung quanh tôi muốn bảo anh ta rằng tôi không định đi báo sự đe doạ đó, nhưng anh ta nên cho tôi tên anh ta và địa chỉ để cho tôi có thể ít nhất cũng gửi cho anh ta lời đáp. Nhưng, nếu anh ta thậm chí còn không dám làm nhiều đến thế, tôi sẽ trao cho anh ta lời đáp của tôi ở đây. Anh ta nên nghe một cách chăm chú.
Anh có có thể không nhận biết được về điều này, nhưng ngay chỗ đầu tiên anh ta không nên vội vàng bắn tôi, bởi vì với một phát đạn, điều tôi đang nói sẽ trở thành chân lí vĩnh hằng. Nếu như Jesus không bị đóng đinh, thế giới đã quên lãng ông ấy từ lâu rồi. Theo cách đó, bức hại đã đem lại ích lợi cho Jesus. Tác giả George Gouzette nói rằng Jesus đã lập kế hoạch cho việc đóng đinh của mình. Bản thân Jesus muốn bị đóng đinh bởi vì, thế thì, mọi lời ông ấy đã thuyết giảng sẽ trở thành chân lí sống cho nhiều thời đại sắp tới và sẽ có ích cho hàng triệu người.
Điều này là hoàn toàn có thể. Judas, người đã bán Jesus lấy ba mươi đồng tiền, là một trong những tông đồ được yêu mến nhất của ông ấy. Không thể tin được rằng một người đã để ra biết bao nhiêu năm ở cùng với Jesus lại bán mình để được số tiền nhỏ mọn thế trừ phi là bản thân Jesus đã gợi ý rằng ông ta làm điều đó, trừ phi là bản thân Jesus đã gợi ý ông ta đổi phe và thu xếp sự bức hại để cho lời của ông ấy có thể trở thành nguồn nước cam lồ vĩnh hằng, giải thoát hàng triệu người.
Có thể đã có ba trăm triệu người Jaina trên thế giới và không chỉ ba triệu, như trường hợp hiện nay, nếu Mahavira bị đóng đinh. Nhưng Mahavira qua đời một cách an bình; ông ấy có lẽ không bao giờ nghĩ về việc chết trên cây thập tự. Không ai cố làm điều đó với ông ấy, bản thân ông ấy cũng không cố gắng thu xếp điều đó. Không Phật, không Mohammed không Rama không Krishna không Mahavira, mà Jesus mới là người bị đóng đinh trên cây thánh giá - và ngày nay nửa thế giới là người Ki tô giáo. Và cả thế giới có thể một ngày nào đó cải sang Ki tô giáo. Đây là phía sáng hơn của việc bị đóng đinh. Do đó, tôi nói với anh bạn tôi đừng quá vội vàng bắn tôi, nếu không anh ta sẽ lại hối hận về hành động của mình cho những ngày còn lại của anh ta.
Điều thứ hai là ở chỗ anh không nên lo nghĩ quá nhiều về điều đó, bởi vì tôi không có ý định chết trên giường. Khi thời gian đúng tới, tôi sẽ làm hết sức mình để thấy rằng người này hay người nọ bắn tôi. Anh ta không nên hấp tấp; bản thân tôi sẽ thu xếp việc đó. Cuộc sống là có ích nhưng khi một người bị ám sát, thì cái chết cũng trở nên có ích. Cái chết do đạn bắn thường có thể hoàn thành điều cuộc sống không thể làm được.
Mọi người bao giờ cũng lặp lại cùng sai lầm này - những người trao thuốc độc cho Socrates, những người ám sát Mansoor, những người đóng đinh Jesus. Đấy toàn là hành động trẻ con, tất cả đều tự chết yểu. Và cũng mới gần đây thôi, người đã bắn vào Gandhi cũng không nhận biết rằng không một tín đồ nào của Gandhi có thể đã thành công trong việc kéo dài kí ức về Gandhi tới mức rằng anh ta đã thành công bởi hành động ám sát ông ấy. Gandhi khoanh tay trong cử chỉ cúi mình khi ông ấy bị bắn và chết. Cái cúi mình đó, cái khoanh tay đó, là rất có ý nghĩa. Nó là mang tính diễn đạt theo nghĩa rằng đệ tử cuối cùng và tốt nhất của Gandhi chung cuộc đã tới: người sẽ làm cho Gandhi thành bất tử. Thượng đế đã gửi tới người cần thiết.
Không ai chết bởi việc bị ám sát cả; điều đó chỉ giúp làm cho người ta thành bất tử. Âm mưu của cuộc sống là phức tạp; câu chuyện của cuộc sống tràn đầy với những tình trạng chưa quyết định: mọi thứ không đơn giản như chúng dường như vậy. Người chết trên giường thì chết mãi mãi, trong khi người chết bởi viên đạn ám sát lại chẳng bao giờ chết cả.
Khi thuốc độc được chuẩn bị cho Socrates, một số trong các bạn ông đã hỏi nên xử trí thân thể ngài thế nào sau đó. “Nên đem chôn nó đi hay đem thiêu hay thế nào?” họ hỏi. Socrates cười to và nói, “Các ông bạn ngốc nghếch ơi! Các ông không biết điều đó, nhưng các ông sẽ chẳng bao giờ có thể chôn ta được đâu. Ta sẽ sống thậm chí khi tất cả các ông không còn nữa. Mà cái mẹo là, ta đã chọn cái chết chỉ để sống mãi mãi!”
Cho nên, anh bạn tôi ơi, nếu anh ở đây, không nên hành động một cách vô suy nghĩ, nếu không anh sẽ nhanh chóng nhận ra mình là kẻ thua cuộc. Tôi sẽ chẳng bị hại gì cả; tôi không phải là một trong những người mà đạn có thể phá huỷ được. Tôi là một trong những người sẽ sống với đạn. Anh bạn không nên vội vàng bắn tôi. Anh bạn không nên bối rối nữa, vì tôi sẽ làm hết sức mình để không chết trên giường. Loại chết đó không thích đáng. Loại chết đó là cái chết không xứng đáng. Và điểm thứ ba anh bạn cần phải nhớ là đừng sợ kí tên vào thư, cũng đừng sợ cho địa chỉ. Nếu tôi bị thuyết phục có ai đó đủ bạo dạn và đủ sẵn sàng để bắn tôi, tôi sẽ giữ lời hứa không báo cho ai cả, để cho về sau anh ấy sẽ không bị dính líu.
Nhưng chẳng có gì rất kì lạ về người này cả. Anh ta đã viết với sự tin chắc anh ta đang bảo vệ tôn giáo. Anh ta viết bởi vì anh ta nghĩ tôi muốn phá huỷ tôn giáo, còn anh ta muốn khôi phục tôn giáo. Chủ định của anh ta cũng không có ác tâm. Cảm giác của anh ta là rất chân thành và, với anh ta là rất tôn giáo.
Những người được gọi là tôn giáo như vậy đều đang chơi với xúc động của thế giới. Chủ định của họ có thể rất tốt nhưng trí thông minh của họ lại rất nghèo nàn. Với nhiều thời đại, những người tự cho mình là phải như vậy và loại người kiểu họ đã bóp chết việc nở hoa đầy đủ của chân lí, và bởi vì tri thức đã bị kiềm chế theo cách tương tự, nên dốt nát đang lan rộng. Chúng ta dò dẫm trong bóng tối; chúng ta lạc trong đêm tối của dốt nát. Những nhà thuyết giảng đạo đức này đã xây dựng bục giảng kinh cao để từ đó họ làm lễ cho chúng ta.
Nhưng cũng đúng là khi tia sáng của chân lí bắt đầu rạng lên trong các kiếp sống chúng ta, cái gọi là những người linh thiêng sẽ thất nghiệp. Khi chúng ta có khả năng sinh ra mối quan hệ sống với Thượng đế; khi chúng ta đi tới biết samadhi; khi các kiếp sống tầm thường, thông thường của chúng ta bắt đầu được biến đổi thành cuộc sống thiêng liêng, sẽ không còn công việc gì cho các nhà đạo đức và thuyết giáo nữa. Nhà thuyết giáo chỉ có ưu thế chừng nào mọi người còn dò dẫm trong bóng tối.
Bác sĩ là cần tới khi mọi người bị ốm, nhưng bác sĩ sẽ thừa nếu mọi người hết ốm. Giống như nghề thuyết giáo, nghề thuốc phát đạt theo xung đột bên trong, bởi vì cuộc sống của bác sĩ phụ thuộc vào người bị bệnh. Bác sĩ chữa cho bệnh nhân ở phía ngoài, nhưng bên trong ông ta hi vọng họ cứ ốm. Và khi có bệnh dịch, ông ta cám ơn Thượng đế về việc đó.
Tôi đã nghe một câu chuyện:
Một đêm một nhóm bạn bè có một bữa tiệc lớn. Ăn và uống, họ chè chén say sưa cho tới đầu giờ sáng. Khi họ bắt đầu ra về, người chủ khách sạn bảo vợ cám ơn Thượng đế do việc đưa họ tới theo số đông. Nếu khách cứ xô đến tiếp tục họ sẽ trở nên giầu, ông ta bảo với vợ. Người chủ trì, khi anh ta trả tiền, đã yêu cầu ông chủ khách sạn cầu nguyện cho sự thịnh vượng của công việc kinh doanh nữa, để cho họ có thể tới lần nữa.
Ông chủ khách sạn hỏi, “Nhân tiện, thưa ông, ông làm nghề gì ạ?”
“Tôi làm dịch vụ lễ tang,” anh ta nói. “Việc kinh doanh của tôi phát đạt nhất khi mọi người chết.”
Tương tự, nghề bác sĩ có thể là cứu chữa người, nhưng càng nhiều người ngã bệnh ông ta càng làm tiền nhiều. Bên trong, ông ta hi vọng bệnh nhân mình đừng khỏi chóng quá. Và do vậy phải mất thời gian để bệnh nhân được chữa chạy, đặc biệt là nhà giầu. Bệnh nhân nghèo khỏi nhanh hơn bởi vì bác sĩ không kiếm được nhiều nếu người nghèo ốm trong thời gian lâu. Lợi nhuận là từ khách hàng giầu, và do vậy ông ấy làm chậm rãi khi chữa cho người giầu. Dẫu sao đi chăng nữa, người giầu bao giờ cũng không khoẻ; họ là câu trả lời cho lời cầu nguyện của bác sĩ.
Người thuyết giáo cũng cùng một lớp. Người ta càng vô đạo đức, càng có nhiều phần tử chống xã hội, hỗn loạn càng lan rộng, bục giảng kinh của ông ta càng trở nên cao hơn - bởi vì thế thì có nhiều nhu cầu với ông ta hơn để cổ vũ mọi người tôn trọng bất bạo lực, trung thực, hành xử lương thiện, tôn trọng qui định này, trung thành với qui tắc kia, và vân vân. Nếu mọi người đều phải cả, đều biết kiềm chế, có kỉ luật, an bình, trung thực và linh thiêng, thì nghề của người thuyết giáo sẽ không tồn tại nữa.
Và tại sao lại có lắm kẻ thuyết giáo và cái gọi là lãnh tụ tôn giáo ở Ấn Độ đến thế - còn nhiều hơn ở bất kì đâu khác trên toàn thế giới này? Tại sao, trong mỗi và mọi làng mạc và trong mỗi và mọi ngôi nhà, đều có học giả, guru, swami hay tu sĩ? Tại sao có số đông lãnh tụ tôn giáo trên đất nước này thế?
Người ta không nên giả thiết chúng ta là một dân tộc tôn giáo sâu sắc bởi vì chúng ta có nhiều vị thánh và guru thế. Đấy là một sự kiện rằng chúng ta, ngày nay, đang là một trong những quốc gia phi tôn giáo và vô đạo đức nhất trên thế giới. Đó là lí do tại sao biết bao nhiêu người thuyết giáo tìm thấy cơ hội vàng ở nước chúng ta. Thuyết giảng đã trở thành hình ảnh quốc gia của chúng ta. Một người bạn của tôi đã gửi cho tôi một bài báo lấy từ một tạp chí của Mĩ. Anh ấy cần ý kiến của tôi về một thiếu sót mà anh ấy đã để ý thấy nó. Đấy là bài báo khôi hài, nói rằng tính cách quốc gia của bất kì nước nào đều có thể được biết chắc bằng việc làm cho người của nước đó bị say. Nếu người Hà lan say, bài báo nói, người đó sẽ chộp lấy thức ăn và không để còn lại cái gì trên bàn ăn; ngay khi anh ta uống thì anh ta đã bận ăn trong hai đến ba giờ. Nếu người Pháp uống, anh ta trở nên bất ổn; anh ta muốn hát và nhảy múa. Nếu người Anh say, anh ta sẽ chui vào một góc và giữ yên mình ở đó. Người Anh thông thường im lặng và khi anh ta bị say thì anh ta trở nên càng thờ ơ hơn. Đấy là các phản ứng điển hình của nhiều quốc tịch, theo bài báo.
Nhưng bởi sơ suất hay dốt nát, chẳng có nói gì tới Ấn Độ cả. Bạn tôi hỏi tôi phải nói gì về tính cách Ấn Độ; anh ấy hỏi tôi điều gì sẽ xảy ra nếu người Ấn Độ say khướt cò bợ. Tôi đã viết cho anh ấy rằng câu trả lời đã nổi tiếng thế giới rồi: khi người Ấn Độ bị say thì anh ta lập tức bắt đầu thuyết giáo. Đây là tính cách quốc gia của chúng ta.
Hàng không dứt các nhà thuyết giáo, thầy tu, nhà sư và guru này là dấu hiệu cho bệnh lan rộng; nó là chỉ dẫn về vô đạo đức lớn. Và điều kì lạ nhất là ở chỗ, trong tâm điểm trái tim người ta, không một lãnh tụ nào trong số này muốn vô đạo đức bị diệt chủng, muốn bệnh này bị xoá bỏ đi - bởi vì nếu và khi nó được chữa lành, thì nhà truyền giáo sẽ không còn việc gì để làm nữa. Khao khát bên trong của họ là ở chỗ bệnh này cứ tiếp tục, ở chỗ ốm yếu này cứ tăng lên.
Cách dễ dàng nhất để cho phép bệnh này tiếp tục không bị kiểm tra là kìm hãm phát triển tri thức bao quát về cuộc sống, và doạ con người để đừng mong muốn hiểu các khía cạnh sâu sắc hơn và ý nghĩa hơn của cuộc sống. Và chính dốt nát về những điều này tự động gây ra việc lan toả của vô đạo đức, truỵ lạc và thoái hóa. Nếu mọi người có thể cố gắng nhận ra và biết tới những khía cạnh chói sáng và sâu sắc này của cuộc sống, thế thì phi tôn giáo và những bệnh tật hệ quả của nó sẽ bắt đầu tan biến, từng cái một.
Tôi muốn lôi kéo chú ý của các bạn vào sự kiện rằng dục là khía cạnh của cuộc sống có trách nhiệm nhất cho cái vô đạo đức. Nó bao giờ cũng là nguyên nhân cơ bản và có ảnh hưởng nhất của hư hỏng, truỵ lạc và đờ đẫn trong con người. Và do vậy các nhà lãnh đạo tôn giáo chưa bao giờ muốn nói về nó cả.
Một người bạn khác của tôi đã gửi một thông điệp nói rằng không vị thánh hay guru nào đã từng nói về dục cả. Anh ta viết rằng sự kính trọng cao của anh ta với tôi đã kém đi bởi vì việc nói của tôi về dục. Tôi muốn bảo với anh ấy chẳng có lí do gì để mà thất vọng trong tôi cả. Trước hết, nếu bạn có lần đã kính trọng tôi, thì đấy là sai lầm của bạn. Tại sao phải kính trọng tôi? Động cơ của bạn là gì? Khi nào tôi đã yêu cầu bạn kính trọng? Nếu bạn kính trọng tôi, đấy là lỗi của bạn; nếu bạn không thiên vị nữa; đấy là quyền của bạn. Tôi không phải là mahatma, tôi cũng chẳng thiên về người nào.
Nếu như tôi có hơi chút ham muốn để trở thành mahatma hay guru, thì tôi sẽ không bao giờ chọn chủ đề này ngay chỗ đầu tiên. Người ta không bao giờ có thể trở thành mahatma nếu người ấy không rất láu cá trong việc chọn lựa chủ đề cho bài nói của mình. Tôi chưa bao giờ là mahatma cả, tôi không là mahatma, và tôi chắc chắn không muốn trở thành mahatma - bản thân ham muốn đó là phóng chiếu của bản ngã tinh vi, tinh tế. Tôi là một con người, và điều đó là đủ tốt cho tôi rồi. Chẳng lẽ không đủ sao, chỉ là một con người thôi? Con người không thể hạnh phúc mà không cưỡi lên đầu lên cổ người khác, không áp đặt bản thân mình lên người khác, không đòi hỏi quyền lực dưới dạng này dạng khác được sao? Con người không thể hạnh phúc đơn giản chỉ bởi việc vẫn còn là một con người được sao? Trong bất kì tình huống nào tôi cũng thấy bản thân mình hạnh phúc và hài lòng.
Tôi mong ước về sự cao thượng trong nhân loại; tôi muốn thấy con người vĩ đại hơn. Chẳng lẽ việc trở thành con người, đạt tới toàn bộ phạm vi của nhân cách lại không là điều vĩ đại sao? Mọi người đều có thể trở thành vĩ đại; mọi người đều có khả năng trở thành vĩ đại theo nghĩa đúng đắn của từ này. Thời của các mahatma và các guru đã qua rồi; họ không còn được cần thêm nữa. Một nhân loại vĩ đại là điều bản chất; có nhu cầu dành một giờ này cho nhân loại vĩ đại. Đã có nhiều con người vĩ đại, nhưng chúng ta thu được gì từ họ? Nhu cầu không phải là ở người vĩ đại, mà là nhân loại vĩ đại, loài người vĩ đại.
Ít nhất thì một người cũng vỡ mộng; ít nhất thì một người đã đi tới biết rằng mình không phải là người vĩ đại. Đây là giảm nhẹ lớn, vỡ mộng của con người này. Anh ta đã viết cho tôi để khích tôi mang quyền mahatma; anh ta nói tôi có thể trở thành một guru lớn nếu tôi chấm dứt thảo luận về những chủ đề như vậy. Mãi cho tới nay, các mahatma và guru đã bị lừa phỉnh bởi cách như vậy, và xem như kết quả, những người vĩ đại nhưng yếu ớt đó đã không thảo luận về các chủ đề có thể gây ra thảm hoạ cho quyền làm guru của riêng họ, quyền làm mahatma của riêng họ. Trong mối quan tâm của họ để cứu lấy vương miện của riêng mình, họ chưa bao giờ để ý tới việc họ đã gây ảnh hưởng tai hại làm sao cho nhiều người.
Tôi không bận tâm tới việc ở cái bệ cao nào đó. Tôi không mơ về nó; tôi không có ý định về một cái như thế. Mặt khác, tôi lại quan ngại rằng ai đó có thể muốn làm tôi thành mahatma một ngày nào đó.
Những ngày này, không thiếu gì các guru và mahatma, và để được xem là một người như vậy thì điều rất quan trọng là phải chấp nhận vị thế đúng. Nó bao giờ cũng là như vậy. Nhưng vấn đề nan giải không phải là việc có sẵn các mahatma, mà là làm sao con người đích thực có thể tiến hoá được. Chúng ta có thể làm gì để đạt tới mục đích đó? Làm sao chúng ta có thể áp dụng cho mình nhiệm vụ đó?
Tôi tin cậy và tin tưởng rằng điều chúng ta đã thảo luận sẽ hướng dẫn bạn trên con đường đúng hướng tới việc phá vỡ những rào chắn vẫn ngáng trên đường tiến hoá của con người đích thực. Con đường này là thấy được; biến đổi dần dần của thèm khát dục trong bạn là có thể. Dục của bạn có thể trở thành samadhi của bạn.
Bây giờ, như bạn hôm nay, bạn là thèm khát của mình; bạn không phải là linh hồn mình. Bạn cũng có thể trở thành linh hồn, nhưng chỉ bằng việc biến đổi dần dần tính dục của mình. Chỉ thế thì cuộc hành trình của bạn tới Thượng đế mới có thể bắt đầu.
Nhiều câu hỏi tương tự khác đã được gửi tới tôi, cho nên cho phép tôi xét duyệt vài điểm quan trọng.
Tôi đã nói các bạn phải cố gắng có nhận biết liên tục về thoáng nhìn về samadhi trong giao hợp. Người ta nên cố gắng nắm bắt lấy điểm đó, cái thoáng nhìn về samadhi đó loé lên giống như tia chớp trong màn sương mờ của giao hợp, chỉ lung linh trong một giây giống như ma trơi và thế rồi tan biến. Nỗ lực của bạn phải là để biết nó, trở nên quen thuộc với nó, giữ lấy nó. Nếu bạn có thể tạo ra tiếp xúc đầy đủ, dù chỉ một lần, trong khoảnh khắc đó bạn sẽ biết rằng bạn không là thân thể, rằng bạn vô thân thể. Trong phần thời gian đó bạn là cái gì đó khác: thân thể bị bỏ lại đằng sau và bạn trở thành linh hồn, cái ta thực của bạn. Nếu bạn có thoáng nhìn vào vinh quang đó cho dù chỉ một lần, bạn có thể theo đuổi nó, thông qua dhyana, thông qua thiền, để thiết lập mối quan hệ sâu sắc và lâu dài với nó. Thế thì con đường tới samadhi là của bạn. Và khi nó trở thành một phần của hiểu biết của bạn, phần của tri thức của bạn và cuộc sống bạn, sẽ không còn chỗ cho thèm khát nữa.
Một người bạn khác sợ về điều có thể xảy ra cho con cái chúng ta, cho toàn bộ nòi giống chúng ta, nếu chúng ta vứt bỏ dục như thế này. “Nếu mọi người đều đạt tới vô dục qua samadhi,” anh ấy hỏi, “thì các thế hệ tương lai sẽ thế nào?”
Người ta có thể dứt khoát tuyên bố rằng loại con cái hiện giờ đang được tạo ra sẽ không tồn tại nữa. Cách thức sinh sản hiện tại là tốt để tạo ra mèo, chó và các con vật khác, nhưng không đủ tốt cho con người. Đây là loại thái độ gì đối với sinh sản ? Đây là loại chế tạo con trẻ gì mà không suy nghĩ thế? Loại sinh sản số đông này, sinh sản ngẫu nhiên này là vô mục đích; nó là vô dụng. Và đám đông của chúng ta trở nên đông đúc làm sao! Dân số chúng ta đã bùng nổ theo tỉ lệ không thể nào tin được rằng nếu nó không được kiểm soát theo thời gian, thì các nhà khoa học nói thậm chí sẽ không có đủ chỗ để di chuyển ngón chân bạn trong một trăm năm! Trong một trăm năm bạn bao giờ cũng cảm thấy bạn đang ở giữa một loại tụ tập nào đó. Bất kì khi nào bạn nhìn thì bạn cũng sẽ cảm thấy gặp gỡ đang tiếp diễn. Triệu tập họp sẽ là không cần thiết.
Câu hỏi của người bạn đặc biệt này là rất liên quan. Anh ấy có thể hỏi làm sao con cái sẽ được tạo ra nếu vô dục trở thành thông dụng.
Tôi muốn trao cho anh ấy một điều làm cho tỉnh ngộ nữa, và bạn cũng nên chú ý: Con cái có thể được sinh ra từ vô dục, nhưng toàn bộ mục đích và ý nghĩa của việc tạo ra con cái sẽ có một chiều hướng mới. Thèm khát không phải là phương tiện đúng cho việc sinh sản - vô dục là trung gian duy nhất đủ phân biệt. Cứ như nó bây giờ, sinh con cái là ngẫu nhiên: bạn đi vào trong dục với động cơ nào đó khác; con cái chỉ là ngẫu nhiên. Con cái là khách không mời, và bạn chỉ có thể có nhiều tình yêu với con cái như bạn có với khách không trông đợi.
Và khách không mời đã được đối xử như thế nào? Bạn chuẩn bị giường cho họ thoải mái và bạn phục vụ họ thức ăn; bạn đón chào họ một cách lễ phép và bạn nuông chiều họ - nhưng mọi thứ đều được làm theo phép xã giao; không có cảm giác về tình yêu bên trong. Ý nghĩ thường xuyên của bạn là, “Khi nào những cái chán ngắt này sẽ ra đi?”
Bạn đối xử với con cái không mong muốn theo cùng cách đó, bởi một lí do đơn giản là bạn chưa bao giờ muốn có chúng ngay chỗ đầu tiên. Bạn đang theo đuổi cái gì đó khác; chúng đơn giản là sản phẩm phụ. Con cái ngày nay không phải là sản phẩm, chúng là sản phẩm phụ. Chúng không được tạo ra, chúng tới cùng với dục như lớp vỏ bọc bao lấy bắp ngô.
Và do vậy toàn bộ thế giới đã từng cố gắng để bảo vệ dục khỏi những ngẫu nhiên đó. Các cách kiểm soát sinh đẻ đã được phát triển ra từ thái độ này; trợ giúp phi tự nhiên đã được phát minh ra để cho chúng ta có thể tận hưởng dục và, đồng thời, lại được an toàn không sinh con. Trong nhiều thời đại nỗ lực đã được tiến hành để cứu nhân loại khỏi cái gọi là cái xấu. Thậm chí kinh sách cổ Ayurvedic cũng nói tới các phương thuốc. Nhà khoa học ích kỉ ngày nay cũng quan tâm tới cùng điều mà các học giả Ayurvedic ba nghìn năm trước đây đã lo nghĩ.
Tại sao? Tại sao con người lại tập trung vào nghiên cứu này? Con cái khởi động bão tố; con cái bật ra giữa mọi điều; con cái đem tới gánh nặng về trách nhiệm, và cũng có mối nguy hiểm về tính lãnh cảm của phụ nữ đối với dục sau khi sinh con.
Người ta không muốn có con. Người ta có thể muốn có con nếu người đó chưa có, nhưng đấy không phải là vì người đó yêu con cái, đấy là vì người đó yêu của cải. Khi một người muốn có con, bạn chớ lầm trong việc tin rằng linh hồn người đó đang băn khoăn về đứa con, về một con người mới và hồn nhiên. Anh ta đã cóp nhặt của cải của mình bằng lao động vất vả. Ai mà biết được nó có thể thuộc về bàn tay ai sau khi anh ta chết! Anh ta cần một kẻ thừa kế, người được sinh ra từ dòng máu riêng của anh ta, để cứu lấy của cải của anh ta, để tận hưởng tài sản của anh ta. Không ai muốn có con với mục đích chỉ là đứa con. Chúng ta cố gắng cứu mình tránh khỏi chúng, nhưng chúng đơn giản cứ tới theo cách riêng của chúng. Chúng ta chỉ muốn hưởng thú dục và trẻ con lại tạt vào! Con cái này là sản phẩm phụ của dục. Chúng là ốm yếu, chúng yếu ớt, chúng mỏng manh, chúng là tấm màn che với nỗi băn khoăn.
Con cái cũng có thể được thụ thai bởi vô dục, nhưng chúng sẽ không là sản phẩm phụ ngẫu nhiên của dục. Khi điều này xảy ra, dục sẽ là phương tiện để đem tới con cái nhưng nó sẽ không là mục đích tự nó.
Bạn lên chiếc máy bay tới Delhi. Máy bay là phương tiện để tới Delhi. Khi bạn tới đó bạn không định nói bạn sẽ không ra khỏi máy bay.
Khi bạn đạt tới trạng thái siêu tâm thức qua dục, khi bạn đã đạt tới brahmacharya, tới trạng thái giao cảm với điều thiêng liêng, con bạn sẽ là sản phẩm thật, nó sẽ là sáng tạo thực sự! Nhưng mãi cho tới nay, tâm trí khéo léo của con người đã tập trung vào việc xây dựng nên những bộ máy bảo vệ để giúp cho anh ta tránh con cái, ấy vậy mà lại cho phép hưởng thú dục đầy đủ nhất. Nỗ lực đáng phải được làm theo hướng ngược lại. Nhưng chúng ta vẫn muốn duy trì chỗ ngồi của mình thậm chí sau khi chúng ta đã đạt tới sân bay Palam ở Delhi. Bạn có hiểu quan điểm của tôi không? Nếu brahmacharya trở nên lan rộng, thì những phát minh của chúng ta có thể được áp dụng theo hướng tâm linh. Hiện tại, thôi thúc là theo hướng đối lập: ghét ý tưởng con cái và thích thú dục với mục đích riêng dục thôi.
Tôi cũng muốn hỏi người này tại sao anh ta lo nghĩ về việc cứu thế giới khỏi brahmacharya. Hiện tại anh ta quá sợ hãi rằng mọi người trở thành brahmacharya có thể chấm dứt việc sinh ra con cái và chấm dứt thế giới. Anh bạn của tôi ơi, nếu mọi sự như bây giờ, thì khả năng của mọi người trở thành brahmacharya là bằng không. Và nó sẽ vẫn còn như vậy, chừng nào mà sự nhẫn tâm này, sự bất kính đặc biệt và có ý thức này đối với dục vẫn tồn tại. Không, anh bạn của tôi ơi, không có nguy hiểm cho thế giới từ ngả đó. Nhưng khả năng diệt chủng đang tăng lên hàng ngày bởi những việc sinh ngẫu nhiên, liên tục này. Nếu bạn cứ sản sinh ra con cái theo kiểu này thì thế giới chắc chắn sẽ đi tới kết thúc. Và bạn sẽ chẳng cần đến bom nguyên tử hay bom khinh khí. Dân số cứ sinh sôi nẩy nở mãi thế này, sản phẩm phụ khiêu dâm này của bầy sâu bọ sẽ tự nó huỷ diệt nó.
Con người mới, được sinh ra từ brahmacharya, sẽ mang tầm vóc khác. Người đó sẽ có trường thọ mà chúng ta không thể nào hình dung ra nổi. Sức khoẻ của người đó sẽ tuyệt vời; người đó sẽ không bị bệnh tật. Hình hài và vóc dáng người đó sẽ giống như của những tượng uy nghi. Và hương thơm thanh tao sẽ phát ra từ người ấy. Lòng tốt, tình yêu, chân lí, cái đẹp và tôn giáo sẽ là tính cách của người đó. Người đó sẽ được sinh ra với tôn giáo trong mình. Người đó sẽ là một loại hoá thân thiêng liêng.
Chúng ta đã sinh sản một cách phi tôn giáo. Chúng ta đã phải chịu tính phi tôn giáo từ khi sinh và chúng ta chết đi trong phi tôn giáo. Và ở giữa, từ sáng tới đêm, từ sinh tới tử, qua toàn bộ cuộc sống của các kiếp sống mình, chúng ta nói và nói và nói mãi về tôn giáo. Trong con người tối cao sẽ không có bất kì huyên thuyên riêng nào hay thảo luận trống rỗng về tôn giáo, bởi vì tôn giáo sẽ là cách sống của người đó. Chúng ta nói về những điều không phải là một phần cuộc sống của mình, và không nói về những điều đang có đấy. Chúng ta không nói về dục bởi vì đấy là cách chúng ta sống, nhưng chúng ta giữ việc nói về Thượng đế bởi vì cách chúng ta sống chẳng liên quan gì tới Thượng đế ở bất kì cái gì. Trong thực tế, chúng ta giữ mình được thoả mãn bằng việc nói về mọi thứ mà chúng ta chẳng bao giờ có thể đạt tới hay thu được.
Chẳng lẽ bạn chưa bao giờ để ý rằng đàn bà nói nhiều hơn đàn ông sao? Đàn bà bao giờ cũng bận rộn nói về cái gì đó hay cái khác - với hàng xóm, với bất kì ai chịu nghe. Cố ý không làm mất lòng, nhưng người ta nói rằng rất khó hình dung ra nổi hai phụ nữ ngồi cùng nhau một lúc mà lại không nói gì với nhau.
Tôi đã nghe rằng một cuộc tranh cãi lớn đã được tổ chức ở Trung quốc để chọn ra người nói dối lớn nhất nước. Người thắng sẽ được giải thưởng lớn, và do vậy tất cả những kẻ nói dối giỏi nhất đều tụ tập tại vị trí đã chọn cho cuộc tranh cãi.
Khi đến lượt mình, một người nói, “Tôi đi ra công viên và tôi thấy hai phụ nữ ngồi trên chiếc ghế dài và giữ yên lặng.”
Có tiếng ồn ào lớn. Mọi người đều khoái trá. Mọi người hô lên, “Không thể nào có chuyện bịa lớn hơn thế này! Đây là người nói dối lớn nhất!”
Mọi người đều bầu cho người này.
Tại sao phụ nữ nói nhiều như họ vẫn thế? Đàn ông có việc của mình, nhưng đàn bà không có nhiều việc để làm. Chỗ không có nhiều việc để làm, không nhiều hoạt động, thì bao giờ cũng có huyên thuyên vu vơ. Nét nữ tính này là tính cách quốc gia của Ấn Độ. Không có tiến bộ trong quốc gia này; chỉ có nói chuyện và thảo luận.
Con người mới, con người được sinh ra từ brahmacharya, sẽ không nói nhiều - người đó sẽ sống cuộc sống. Người đó sẽ không chỉ nói và nói về tôn giáo, người đó sẽ sống trong tôn giáo. Mọi người sẽ quên về tôn giáo như chủ điểm cho thảo luận vu vơ, bởi vì tôn giáo sẽ là chính bản chất của họ. Nghĩ về con người đó, hình dung về con người đó là điều tuyệt diệu; đó là điều gây kính phục.
Những người như vậy đã được sinh ra, nhưng việc sinh của họ còn hiếm hoi. Đôi khi, rất hãn hữu, một người đẹp như vậy mới được sinh ra mà thậm chí quần áo đắt nhất cũng không thể làm đẹp được người đó, và người đó đứng dậy không mặc quần áo, trần truồng, và toả sáng của cái đẹp của người ấy lan toả đi xa và rộng. Mọi người xúm lại quanh người đó - để thấy người đó, để kì thú vào một thiên thần sống. Một người như vậy có vinh quang thế, có sinh khí thế mà mặc dầu tên người đó là Vardhamana thì mọi người vẫn cứ gọi ông ấy là Mahavira - thắng lợi vĩ đại. Niềm vinh quang của brahmacharya trong ông ấy lên đến mức mọi người phủ phục mình trước ông ấy, trước con người Thượng đế này. Đôi khi một Phật được sinh ra, đôi khi một Christ được sinh ra, đôi khi một Lão Tử được sinh ra. Chúng ta có thể công khai đếm vài cái tên như thế trong toàn bộ lịch sử loài người.
Ngày con cái được sinh ra từ vô dục, từ giao cảm thiêng liêng - bạn có lẽ không thích âm thanh của câu “con cái theo vô dục” mà tôi đang nói về một khái niệm mới, về một khả năng cao quí hơn - ngày con cái nở hoa từ vô dục, nhân loại sẽ đẹp đẽ, mạnh mẽ, chu đáo, nhiệt tình và thông minh tới mức tri thức về cái ta, về cái Trên quá ta, về Tâm thức Vũ trụ, sẽ không còn rất xa với bất kì ai. Mặc dầu điều này là khó hình dung, để tôi minh hoạ bằng một thí dụ.
Nếu tôi bảo một người đang phải chịu chứng mất ngủ rằng anh ta sẽ có khả năng ngủ được ngay lúc anh ta đặt đầu lên gối, anh ta sẽ rất có thể không tin tôi. Anh ta sẽ bảo tôi anh ta bao giờ cũng trăn trở trên giường, ngồi dậy, đứng dậy để lần tràng hạt, hay đếm số, nhưng anh ta không thể ngủ được. Anh ta sẽ nói rằng tôi là kẻ nói dối. Anh ta sẽ hỏi làm sao có thể ngủ ngay lập tức được, chỉ bởi việc nằm xuống. Anh ta sẽ phàn nàn điều đó, mặc cho tất cả mọi loại thực nghiệm, anh ta không thể ngủ ngon, đôi khi không ngủ chút nào trong cả đêm.
Ba mươi đến bốn mươi phần trăn cư dân của thành phố New York phải uống thuốc ngủ. Và các nhà tâm thần sợ rằng trong một trăm năm nữa không ai sẽ có khả năng ngủ tự nhiên, rằng mọi người sẽ phải uống thuốc an thần khi họ lên giường. Nếu đây là trạng thái hiện tại của lành mạnh tâm trí ở New York, thế thì cùng điều đó sẽ xảy ra ở Ấn Độ trong hai trăm năm nữa. Các vị lãnh đạo Ấn Độ chưa bao giờ để bị tụt lại xa đằng sau trong việc sao chép người ngoại quốc. Cho nên chúng ta ăn cắp mọi thứ khác của họ, làm sao chúng ta có thể dốt nát về điều này được?
Cho nên, trong thời gian năm trăm năm, hoàn toàn có thể là mọi người trên thế giới sẽ uống thuốc ngủ trước khi đi nghỉ. Và ngay lập tức sau khi người đó được sinh ra, con trẻ sẽ muốn một liều an thần thay vì sữa, bởi vì nó thậm chí sẽ không an bình từ ngay trong bụng mẹ! Thế thì sẽ rất khó để thuyết phục mọi người rằng, năm trăm năm trước đây, mọi người đơn giản quen nhắm mắt lại và đi ngủ không có thuốc an thần nào cả. Họ sẽ nói điều đó là không thể có được; họ sẽ hỏi làm sao điều đó có thể làm được.
Tương tự, sẽ rất khó thuyết phục những người đã được sinh ra từ vô dục rằng mọi người đã có thời không trung thực, rằng đã có thời có kẻ cắp và kẻ giết người, rằng con người đã có thời tự tử, rằng họ đã đầu độc và đâm chém lẫn nhau, rằng họ đã tiến hành chiến tranh. Họ cũng sẽ không tin rằng những người đã có thời được sinh ra từ dâm dục thông thường mà không có lấy mảy may sâu sắc hơn tiếp xúc vật lí.
Dục tâm linh có thể tiến hoá. Cuộc sống mới có thể bắt đầu cho loài người.
Trong bốn ngày cuối này, tôi đã nói cho các bạn về khả năng của việc đạt tới mức độ mới về sự tồn tại tâm linh. Các bạn đã lắng nghe bài nói của tôi một cách kiên nhẫn và với nhiều tình yêu, mặc dầu để nghe những bài nói này một cách an bình phải là điều rất khó với các bạn; các bạn phải đã cảm thấy ngượng ngùng nhiều lúc.
Một người bạn tới tôi và bầy tỏ nỗi sợ của anh ấy rằng vài người, cảm thấy rằng một chủ đề như vậy không nên được nói tới, có thể đứng dậy và kêu lên một tiếng để dừng bài nói lại. Anh ấy cảm thấy vài người có thể phản đối mạnh mẽ và to mồm việc thảo luận về chủ điểm như vậy trong công chúng. Tôi đã bảo anh ta thế giới sẽ tốt hơn nếu có những người bạo dạn như vậy xung quanh. Bạn sẽ tìm đâu ra một người dũng cảm đến mức người đó sẽ đứng dậy trước công chúng đang tụ tập và đòi diễn giả hãy dừng bài nói của mình? Nếu người dũng cảm như vậy tồn tại trong đất nước này, thế thì những bài nói lém lỉnh và vô nghĩa vẫn được phát biểu từ các bục diễn thuyết cao của đất nước này bởi cả loạt người ngu đã phải chấm dứt từ lâu rồi. Nhưng họ vẫn chưa dừng và họ sẽ chẳng bao giờ dừng cả. Ngay từ đầu, tôi đã chờ đợi vài người bạo dạn đứng dậy và yêu cầu tôi chấm dứt bài nói. Thế thì tôi có thể thảo luận về chủ đề này với anh ta thật chi tiết. Điều đó sẽ là nguồn giải trí lớn cho tôi.
Và như vậy, với những bài nói như vậy, về chủ đề như vậy - mặc cho sự kiện là nhiều bạn bè lo sợ ai đó có thể đứng dậy để phản đối, mặc cho sự kiện là ai đó có thể tạo ra huyên náo ầm ĩ ở đây - các bạn đã yên lặng lắng nghe. Tất cả các bạn đều rất tốt. Tôi biết ơn về kiên nhẫn và chăm chú an bình của các bạn.
Để kết luận, từ trung tâm trái tim tôi, tôi ham muốn rằng thèm khát dục bên trong mỗi chúng ta có thể trở thành chiếc thang qua đó đạt tới ngôi đền của tình yêu, rằng dục bên trong mỗi chúng ta có thể trở thành phương tiện để đạt tới siêu tâm thức.
Và cuối cùng, tôi cúi mình trước điều Tối cao được tôn lên trong tất cả chúng ta.
Xin chấp nhận sự kính trọng của tôi.
Kết thúc quyển “Từ Dục tới Siêu tâm thức” – Quay về Mục lục