Osho –
Từ Dục tới Siêu tâm thức
Bài nói
thứ hai
Sáng sớm, trước
khi mặt trời lên, một người đánh cá ra sông. Trên bờ sông anh ta cảm thấy cái
gì đó dưới chân, và thấy đấy là một túi đá nhỏ. Anh ta nhặt cái túi lên, và quẳng
tấm lưới sang bên, ngồi bên bờ sông để đợi mặt trời lên. Anh ta đang đợi cho
bình minh tới để bắt đầu ngày làm việc. Anh ta nhặt từng hòn đá từ trong túi ra
một cách lười biếng và ném nó xuống nước. Thế rồi anh ta ném hòn đá nữa và rồi
hòn nữa. Trong lúc chẳng có gì khác để làm, anh ta cứ ném đá xuống nước, từng
hòn một.
Mặt trời chậm
rãi nhô lên và trời trở nên sáng ra. Vào lúc đó anh ta đã ném hết đá chỉ trừ mỗi
một viên; viên đã cuối cùng nằm trong lòng tay anh ta. Tim anh ta suýt ngừng đập
khi anh ta thấy, dưới ánh sáng ban ngày, cái mình đang giữ trong tay. Đấy là
viên ngọc! Trong bóng tối, anh ta đã ném đi cả túi ngọc! Vô tình anh ta đã bị mất
biết bao nhiêu! Tràn đầy hối hận, anh ta tự nguyền rủa mình. Anh ta khóc nức nở
và thổn thức, gần như tâm trí anh ta chỉ còn toàn luyến tiếc.
Anh ta ngẫu
nhiên tình cờ bắt gặp kho báu đủ làm giầu cho đời mình nhiều lần, nhưng một
cách vô tình, và trong bóng tối, anh ta đã làm mất nó. Vậy mà theo một cách nào
đó anh ta vẫn còn may mắn: vẫn còn lại một viên ngọc; ánh sáng đã rạng lên trước
khi anh ta ném nó đi mất. Nói chung, phần lớn mọi người thậm chí cũng chẳng được
may mắn ấy.
Có bóng tối khắp
xung quanh và thời gian trôi nhanh. Mặt trời còn chưa lên và chúng ta đã làm
phí hoài tất cả những viên ngọc quí giá của cuộc sống. Cuộc sống là một loạt
kho báu bao la, còn con người chẳng làm gì với nó ngoài việc vứt nó đi. Vào lúc
chúng ta hiểu ra tầm quan trọng của cuộc sống chúng ta đã làm lãng phí nó mất rồi.
Điều bí mật, điều bí ẩn, phúc lạc, giải thoát, thiên đường - tất cả đều mất đi.
Và cuộc sống người ta bị tiêu phí đi.
Trong vài ngày
tới đây tôi dự định nói về những kho báu của cuộc sống. Nhưng cũng khó làm sáng
tỏ cho những người coi cuộc sống như cái túi đá. Mọi người khó chịu nếu bạn lôi
kéo sự chú ý của họ vào sự kiện là chính mọi thứ họ đang ném đi là đồ châu báu,
chứ không phải đá. Họ nổi cáu, không phải bởi vì điều được nói là không đúng mà
bởi vì họ đã được chỉ ra cho cái dại dột của riêng mình, bởi vì họ được nhắc nhở
về điều họ đã đánh mất. Bản ngã của họ bước vào; họ nổi giận.
Thậm chí với những
cái đã bị mất đi cho tới giờ; thậm chí nếu cuộc sống còn lại mà ngắn ngủi; thậm
chí nếu chỉ còn lại một hòn đá, thì cuộc sống của bạn vẫn có thể được cứu lấy.
Việc học chẳng bao giờ là quá muộn cả. Sự giúp đỡ vẫn còn có thể có và, đặc biệt
trong việc tìm kiếm chân lí, chẳng bao giờ quá muộn cả. Vẫn còn có những lí do
để cảm thấy tin cậy.
Nhưng từ dốt
nát của chúng ta và trong bóng tối, chúng ta cứ cho là cái túi của cuộc sống chẳng
có gì ngoài đá thôi.
Kẻ nhát gan đơn
giản chấp nhận thất bại trước khi họ thực hiện bất kì nỗ lực nào để tìm kiếm
chân lí.
Để bắt đầu, tôi
muốn cảnh báo về những cạm bẫy của chủ nghĩa định mệnh, về ảo tưởng này đối với
thất bại nào đó. Cuộc sống không phải là một chồng cát và đá; nếu bạn có con mắt
đúng để thấy nó, thì phải có nhiều cái là tốt trong cuộc sống. Trong cuộc sống
bạn sẽ thấy cái thang để đạt tới Thượng đế.
Trong thân thể
những máu, thịt và xương này, một cái gì đó hay một ai đó đang ở xa với những
thứ đang tồn tại. Nó chẳng liên quan gì tới thịt, máu hay xương cả; nó là bất tử.
Nó không có bắt đầu chẳng có kết thúc. Vô hình dạng, nó ở tại cốt lõi của mỗi một
chúng ta. Từ bóng tối của dốt nát của bạn, tôi thúc giục bạn, mong mỏi khao
khát ngọn lửa bất tử đó!
Nhưng ngọn lửa
bất tử này được trá hình dưới làn khói của cái hữu tử, và do vậy chúng ta không
thể nào thấy được ánh sáng. Chúng ta gặp phải khói và bước lùi lại. Nhưng người
có chút ít dũng cảm hơn thì tìm kiếm thêm một chút, nhưng chỉ trong khói, và do
vậy họ nữa cũng không thể đạt tới được ngọn lửa, ngọn nguồn của sự chói sáng.
Làm sao chúng
ta có thể tiến hành cuộc hành trình này tới ngọn lửa đó ở bên ngoài làn khói -
tới cái ta bên trong thân thể? Làm sao chúng ta có thể hiểu rõ được cái Trên
ta, cái Phổ dụng? Làm sao chúng ta có thể đi tới biết cái do tự nhiên nguỵ
trang, cái ẩn kín trong tự nhiên?
Tôi sẽ nói về
nó trong ba giai đoạn.
Ngay chỗ đầu
tiên, chúng ta đã bao bọc mình bằng những định kiến, những ý tưởng khoa trương
và những triết lí giả tạo đến mức chúng ta đã tước bỏ đi của mình khả năng thấy
được chân lí trần trụi. Không hiểu biết, không tìm tòi, không bất kì tò mò nào,
chúng ta mang những giả thuyết nhân tạo về cuộc sống. Trong hàng nghìn năm
chúng ta đã từng được dạy rằng cuộc sống là vô nghĩa, rằng nó là vô dụng và khổ.
Chúng ta đã bị thôi miên tin rằng sự tồn tại của chúng ta là vô dụng, vô mục
đích, đầy những buồn phiền; rằng cuộc sống phải bị coi thường, phải bị bỏ qua.
Sự lặp lại thường xuyên này bóp chặt mọi thứ bao bọc quanh ta, cho nên bây giờ
chúng ta cảm thấy rằng cuộc sống chẳng là gì nhiều hơn sự ồn ào lớn, tiếng om
sòm lớn, một ổ khổ.
Chính bởi vì
khinh thường này với cuộc sống mà tất cả mọi niềm vui và tình yêu đã bị mất đi
khỏi con người. Con người bây giờ chỉ là một mớ vô hình; người đó là biển cả rối
loạn những buồn phiền. Và cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên chút nào rằng, bởi
những quan niệm sai lầm này, con người đã chấm dứt việc cố gắng ngẫm nghĩ về bản
thân mình. Tại sao cứ cố đi tìm kiếm cái đẹp trong cái mớ xấu xí thế? Và khi
người ta tin tưởng vững chắc rằng cuộc sống đơn giản có nghĩa là bị vứt đi, bị
bác bỏ, thế thì ý nghĩa gì có đấy để cố gắng nhận biết nó, để cố gắng lau sạch
nó và làm đẹp nó lên? Toàn bộ nỗ lực dường như là vô ích.
Thái độ của
chúng ta với cuộc sống không thể là thái độ của người đang dùng phòng đợi trong
ga xe lửa. Người đó biết mình chỉ ở đó một chốc lát thôi, rằng người đó sẽ rời
đi ngay. Cho nên phòng đợi có quan trọng gì? Dù nó là bất kì cái gì cũng chẳng
quan trọng; nó hoàn toàn không có ý nghĩa. Người đó vứt những thứ vặt vãnh và đầu
mẩu thuốc lá đây đó; người đó khạc nhổ; người đó làm bẩn nó; người đó vô suy
nghĩ; người đó không quan tâm tới hành vi của mình: sau rốt, người đó sẽ đi
trong chốc lát. Theo cùng cách đó, chúng ta coi cuộc sống như nơi tạm bợ.
Khuynh hướng hiện
thời là hỏi tại sao người ta cứ phải bận tâm với việc tìm kiếm chân lí và cái đẹp
trong cuộc sống. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng cuộc sống sẽ đi tới điểm cuối
trong quá trình xứng đáng, và thế thì không có lối thoát khỏi thực tại của cuộc
sống. Chúng ta có thể đổi nhà, đổi thân thể, nhưng cái tinh túy của cuộc sống
chúng ta vẫn còn lại với chúng ta. Đó là cái Ta, với chữ ‘T’ hoa. Hoàn toàn
không có cách nào để gạt bỏ nó.
Chúng ta được
hình thành bởi điều ta làm. Chung cuộc, hành động của ta tạo ra ta hay cắt xén
ta. Chúng ta thay đổi các kiếp sống của mình. Chúng ta hình thành nên các kiếp
sống và định khuôn cho linh hồn mình. Cách chúng ta sống và điều chúng ta làm với
các kiếp sống của mình tạo nên tương lai của chúng ta. Thái độ của người ta đối
với cuộc sống hướng dẫn cho con đường của linh hồn người ta: cách thức nó tiến
hoá, điều cho tới nay vẫn là bí ẩn chưa biết thì nó sẽ làm sáng tỏ ra. Nếu con
người nhận biết rằng thái độ của mình với cuộc sống tạo giai điệu cho tương lai
mình, người đó lập tức sẽ vứt bỏ cái nhìn u tối này, rằng cuộc sống là mối bất
hoà, rằng nó là vô dụng và vô nghĩa. Thế thì người đó có thể hiểu ra cái giả tạo
của niềm tin rằng sự tồn tại có ngụ ý đầy lời nguyện, rằng không có sự sắp xếp
hệ thống nào cho mọi vật. Thế thì người ấy có thể đi tới biết rằng mọi thứ đối
lập với cuộc sống đều là phi tôn giáo.
Nhưng chúng ta
được dạy việc phủ định cuộc sống nhân danh tôn giáo. Triết lí của tôn giáo bao
giờ cũng là hướng cái chết, thay vì hướng tới cuộc sống. Tôn giáo thuyết giảng
rằng cái tới sau cái chết mới quan trọng, những cái xảy ra trước cái chết chẳng
có ý nghĩa gì dù là bất kì cái gì. Mãi cho tới nay, tôn giáo đã tôn sùng cái chết,
nhưng chẳng biểu lộ kính trọng gì với cuộc sống cả. Chẳng ở đâu thấy được sự chấp
nhận vui vẻ về hoa và quả sống; mọi nơi đều có níu bám ngoan cố vào hoa chết.
Các kiếp sống của chúng ta là lời tán dương trên nấm mồ hoa chết!
Tiêu điểm của
nghiên cứu tôn giáo bao giờ cũng là vào phía bên kia của cái chết - vào thiên
đường, vào moksha, vào niết bàn - cứ dường như là điều xảy ra trước cái chết chẳng
có mối quan tâm nào hết cả. Tôi muốn hỏi, nếu bạn không thể nào sống được với
điều xảy ra trước cái chết, làm sao bạn có thể đối phó được với cái tới sau cuộc
sống? Điều đó sẽ gần như là không thể được! Nếu chúng ta không thể nào giúp ích
cho bản thân mình về những cái đang ở đây, trước cái chết, thì chúng ta chẳng
bao giờ có thể chuẩn bị hay có đủ tư cách cho điều tới sau cái chết. Việc chuẩn
bị cho cái chết của người ta phải được làm trong cuộc sống của người ta chứ! Nếu
có thế giới khác sau cái chết, thì thế nữa chúng ta sẽ phải đương đầu với điều
chúng ta đã kinh nghiệm trong cuộc sống này. Không có lối thoát hậu cho cuộc sống
này, mặc cho tất cả những lời lải nhải về từ bỏ nó.
Tôi nói không
có, không thể có bất kì Thượng đế nào ngoài bản thân cuộc sống này. Tôi cũng
nói rằng yêu cuộc sống là sadhana của người ta, con đường tới Thượng đế của người
ta. Tôn giáo chân thực là để giúp ích cho cái ta của người ta về cuộc sống. Hiểu
rõ chân lí tối thượng vẫn tồn tại trong cuộc sống chính là bước thuận lợi đầu
tiên hướng tới đạt giải thoát toàn bộ. Người làm lỡ cuộc sống là người chắc chắn
làm lỡ mọi thứ khác.
Tuy nhiên,
khuynh hướng của tôn giáo đích xác đối lập lại: vứt cuộc sống đi, từ bỏ thế giới
này đi. Tôn giáo không khuyên nhủ dự tính cho cuộc sống; nó không giúp bạn hướng
dẫn cuộc sống mình; nó không bảo bạn rằng bạn sẽ chỉ tìm thấy cuộc sống khi bạn
sống nó, mà nó nói rằng nếu cuộc sống bạn khổ thì đấy là vì cảm nhận của bạn về
cuộc sống chưa được thuần khiết. Cuộc sống có thể mưa rào hạnh phúc lên bạn nếu
bạn biết cách thức đúng đắn để sống nó.
Tôi gọi tôn
giáo là nghệ thuật sống. Tôn giáo không phải là cách phá hoại cuộc sống, nó là
trung gian để đào sâu vào trong những bí ẩn của sự tồn tại. Tôn giáo không quay
lưng lại với cuộc sống, nó đối diện trực tiếp với cuộc sống. Tôn giáo không trốn
chạy khỏi cuộc sống; tôn giáo ôm choàng lấy cuộc sống hoàn toàn. Tôn giáo là việc
hiểu toàn bộ về cuộc sống.
Xem như kết quả
của những quan niệm sai lầm cơ bản này, chỉ người già mới biểu lộ mối quan tâm
tới tôn giáo ngày nay. Bạn sẽ chỉ thấy người già ở những nơi của Thượng đế - đền
đài, nhà thờ, thánh thất. Bạn sẽ không thấy bất kì thanh niên nào ở đó. Tại
sao? Chỉ có một giải thích: tôn giáo của chúng ta đã trở thành tôn giáo cho người
tiến tới tuổi già; nó dành cho những người bị ám ảnh bởi nỗi sợ chết, cho những
người đã đến cuối đời mình, cho những người đầy lo âu về điều tới sau cái chết.
Làm sao tôn
giáo dựa trên triết lí về cái chết có thể làm sáng chói lên cuộc sống được? Thậm
chí sau năm nghìn năm giáo huấn tôn giáo, trái đất này vẫn đang chìm dần từ xấu
sang tồi tệ. Mặc dầu không khan hiếm đền đài, thánh thất, nhà thờ, chùa chiền,
tu sĩ, thầy giáo, thầy tu và những điều như thế trên hành tinh này, mọi người của
nó vẫn chưa trở thành tôn giáo. Điều này là vì tôn giáo mang cơ sở giả tạo. Cuộc
sống không phải là gốc rễ của tôn giáo; tôn giáo được xây dựng trên cái chết.
Tôn giáo không phải là biểu tượng sống; tôn giáo là nấm mồ đá. Loại tôn giáo
thiên lệch này không bao giờ có thể đem cuộc sống tới cho các kiếp sống của
chúng ta.
Đâu là nguyên
nhân cho tất cả những điều này?
Trong vài ngày
này, tôi sẽ thảo luận về tôn giáo của cuộc sống, tôn giáo của đức tin sống - và
nguyên lí cơ bản nào đó mà người bình thường chưa bao giờ được cổ vũ để khám
phá ra, thậm chí cũng chẳng được bảo cho biết nữa. Trong quá khứ, những điều tối
đa đã được thực hiện để ném lớp phủ lên cái qui tắc trọng yếu này của cuộc sống,
để triệt đi chân lí cơ sở này. Và kết quả của sai lầm nghiêm trọng này đã phát
triển thành bệnh dịch phổ quát.
Nỗ lực cơ sở của
người trung bình là gì? Thượng đế chăng?
Không.
Linh hồn chăng?
Không.
Chân lí chăng?
Không
Cái gì là cốt
lõi của con người? Cái gì là thôi thúc trong các chiều sâu của con người bình
thường - trong cuộc sống của người trung bình, của người chưa bao giờ thiền,
chưa bao giờ tìm kiếm linh hồn mình, chưa bao giờ trải qua bất kì cuộc hành
hương tôn giáo nào?
Sùng kính
chăng? Không.
Lời cầu nguyện
chăng? Không.
Giải thoát
chăng? Không.
Niết bàn chăng?
Hoàn toàn không.
Nếu chúng ta
tìm sự thôi thúc cơ sở trong người bình thường, nếu chúng ta tìm lực đứng sau
cuộc sống này, chúng ta sẽ không thấy sùng kính, không Thượng đế, không lời cầu
nguyện cũng không khát khao về tri thức. Chúng ta sẽ thấy cái gì đó khác ở đấy
- cái gì đó đang bị thúc đẩy từ trong bóng tối, cái chưa bao giờ được đối diện
một cách có ý thức, cái chưa bao giờ được ước lượng. Và cái gì đó là gì vậy? Bạn
sẽ thấy cái gì nếu bạn giải phẫu và phân tích cốt lõi của con người trung bình?
Gạt con người
sang bên một chút. Nếu chúng ta nhìn vào vương quốc loài vật hay cây cỏ, chúng
ta sẽ thấy cái gì ở cốt lõi mọi điều? Nếu chúng ta quan sát hoạt động của cây,
chúng ta sẽ thấy gì? Trưởng thành của nó dẫn tới đâu? Toàn bộ năng lượng của nó
được hướng tới việc tạo ra hạt mầm mới. Toàn bộ bản thể nó đều bận tâm tới việc
hình thành hạt mầm mới. Con chim đang làm gì? Con vật đang làm gì? Nếu chúng ta
quan sát kĩ càng các hoạt động của tự nhiên, chúng ta sẽ thấy rằng chỉ có một
quá trình, chỉ một quá trình toàn tâm đang tiếp diễn. Và quá trình đó là một với
sáng tạo liên tục, sinh sản, việc tạo ra các tự dạng mới và khác nhau. Hoa có hạt
mầm, quả có hạt mầm. Và định mệnh của hạt mầm là gì? Hạt mầm mang định mệnh trưởng
thành một cây mới - và do vậy chu trình này tự lặp lại nó. Quá trình sinh sản
là vĩnh hằng. Cuộc sống là lực liên tục tái sản sinh ra bản thân nó. Cuộc sống
là sự sáng tạo, quá trình tự sáng tạo.
Cũng điều này
là đúng cho con người. Và chúng ta đã đặt tên thánh cho quá trình này là “đam
mê dục”, “dục”. Chúng ta cũng đặt thuật ngữ cho nó là “thèm khát dục.” Việc gắn
nhãn này chung qui là việc đặt tên - gọi tên; nó là một loại gièm pha. Và chính
bản thân sự miệt thị này đã làm ô nhiễm bầu không khí.
Thế thì, thèm
khát dục là gì? Đam mê là gì? Lực được gọi là “dục” là gì?
Từ thời còn
chưa được ghi nhớ, sóng đã lăn dài kế tiếp và xô vào bờ cát. Con sóng tới, vỗ bờ
tan ra và rơi lùi lại. Lần nữa chúng lại vỗ vào. Chúng xô vào, chúng tranh đấu,
chúng tan tác và rơi ngược lại lần nữa. Cuộc sống có thôi thúc bên trong để tiến
lên, để tiến bước. Có một loại bất an trong những con sóng này, và có cả trong
những con sóng của cuộc sống nữa. Có nỗ lực liên tục để đạt tới cái gì đó. Mục
đích là gì? Đấy là ham muốn mãnh liệt để có được vị trí tốt hơn; nó là đam mê để
đạt tới chiều cao lớn hơn. Đằng sau năng lượng chưa bao giờ hết này là bản thân
cuộc sống - cuộc sống cố gắng vì cuộc sống tốt, cuộc sống cố gắng vì sự tồn tại
tốt hơn.
Cũng không lâu
là bao - chỉ là vấn đề của vài nghìn năm - từ khi con người lần đầu tiên xuất
hiện trên trái đất. Trước đó, chỉ có loài vật. Và cũng không lâu lắm kể từ khi
loài vật đi vào hiện hữu. Trước đó nữa đã có thời không có con vật nào, khi chỉ
có cây cối. Mà cây cối cũng tồn tại trên hành tinh này trong thời kì không phải
là rất, rất lâu đâu. Trước đó nữa chỉ có đất đá, núi non, sông ngòi và đại
dương.
Và thế giới này
của đất đá, núi non, sông ngòi và đại dương bất ổn vì cái gì vậy? Nó đã cố gắng
để tạo ra cây cối. Và dần dần, cứ dần dần thế, cây cối đi vào sự tồn tại. Sinh
lực đã biểu lộ bản thân nó theo hình dạng mới. Thế rồi trái đất được bao phủ với
rau cỏ. Nó tiếp tục đem tới cuộc sống; nó tiếp tục sinh sản: đơm hoa và kết
trái.
Nhưng cây cối
cũng bất ổn. Chúng không thoả mãn với bản thân mình nữa; thôi thúc bên trong
cũng về cái gì đó cao hơn; chúng háo hức để tạo ra con vật và chim chóc. Thế rồi
con vật và chim chóc đi vào hiện hữu và chiếm lĩnh hành tinh này trong nhiều thời
đại. Nhưng con người chưa có trong tầm nhìn. Và ấy thế mà con người bao giờ
cũng có đó, vốn có trong con vật, cố gắng phá vỡ rào chắn, cố gắng được sinh
ra. Thế rồi, trong đúng quá trình, con người đi vào sự tồn tại.
Bây giờ, về con
người thì sao? Con người gắng sức không ngừng để tạo ra cuộc sống mới. Và chúng
ta đã đặt tên cho khuynh hướng này là “dục”; chúng ta đã gọi nó là “đam mê dục”,
“thèm khát dục.” Nhưng ý nghĩa của thèm khát dục này là gì?
Thôi thúc cơ sở
là để sáng tạo, để tạo ra cuộc sống mới. Bản thân cuộc sống không muốn kết
thúc. Nhưng nó tất cả là để làm gì? Liệu có thể là con người, từ bên trong,
đang cố gắng đem tới con người tốt hơn, dạng cao hơn của bản thân mình không?
Liệu có thể là cuộc sống được trông đợi còn tốt hơn nhiều so với bản thân con
người không? Các hiền nhân từ Nietzsche tới Aurobindo, từ Patanjali tới
Bertrand Russell đều đã nuôi dưỡng một hình ảnh trong tâm điểm của trái tim họ,
giấc mơ về cách thức con người cao siêu hơn họ sẽ tới - siêu nhân. Họ đã hỏi
cách thức sinh linh khác, tốt hơn con người, có thể được tạo ra.
Chúng ta đã chủ
tâm kết án thôi thúc để sinh sản trong hàng nghìn năm. Thay vì chấp nhận nó,
chúng ta đã gièm pha nó. Chúng ta đã dìm nó xuống chỗ thấp nhất có thể được.
Chúng ta đã giấu giếm nó và giả vờ nó không có đó, cứ dường như là không có chỗ
cho nó trong cuộc sống, không có chỗ cho nó trong bố trí mọi vật.
Chân lí là ở chỗ
không có gì sống động hơn thôi thúc này. Và nó nên được đặt vào đúng chỗ. Con
người đã không giải phóng bản thân mình khỏi nó bằng việc che đậy nó và bằng việc
chà đạp nó; ngược lại, người đó đã dấn sâu bản thân mình vào nó thậm chí còn
nhiều hơn. Kìm nén này đã nhường chỗ cho kết quả đối lập mà người ta trông đợi
từ đó.
Tưởng tượng người
mới học đi xe đạp. Đường có thể lớn và rộng thênh thang, nhưng nếu có tảng đá
nhỏ nằm bên đường thì người đi xe sẽ sợ hãi và người đó sẽ đâm sầm vào tảng đá
đó. Có cơ hội một phần trăm để người đó đâm vào tảng đá đó - thậm chí người mù,
trong mọi khả năng, cũng đi qua nó một cách an toàn - nhưng bởi vì nỗi sợ của
mình mà người đi xe chỉ nhận biết có tảng đá đó. Tảng đá hiện ra lù lù trong
tâm trí người đó và con đường biến mất với người đó. Người đó bị thôi miên bởi
hòn đá đó, bị hút vào nó, và cuối cùng người đó đâm vào nó. Người đó đụng với
chính cái vật mà người đó đã làm đến mức tối đa để mình khỏi đụng vào nó.
Con đường lớn
và rộng thênh thang, vậy làm sao người này gặp tai nạn?
Nhà tâm lí Coué
nói rằng tâm trí trung bình bị cai quản bởi Luật hiệu quả ngược. Chúng ta đụng
với chính cái mà chúng ta cố gắng cứu mình khỏi đụng nó bởi vì đối tượng của nỗi
sợ của chúng ta trở thành trung tâm cho ý thức của chúng ta. Theo cùng cách
này, con người đã cố gắng cứu mình khỏi dục trong năm nghìn năm qua. Và kết quả
là ở chỗ mọi nơi, trong mọi xó xỉnh ngóc ngách, người đó bị dục đương đầu với -
trong tất cả các dạng khác nhau của nó. Luật hiệu quả ngược đã tóm bắt linh hồn
con người.
Bạn chưa bao giờ
quan sát rằng tâm trí bị lôi kéo tới và bị thôi miên bởi chính cái mà nó đang cố
gắng tránh sao? Những người dạy cho con người chống lại dục hoàn toàn chịu
trách nhiệm về việc làm cho người đó nhận biết thế về dục. Dâm dục quá mức tồn
tại trong con người có thể bị qui lỗi do các giáo lí hư hỏng.
Ngày nay chúng
ta sợ thảo luận dục. Tại sao chúng ta sợ đến chết về chủ đề này vậy? Đấy là vì
điều phỏng đoán rằng con người có thể trở thành thèm khát dục chỉ bởi việc nói
về dục. Cách nhìn này hoàn toàn sai. Sau rốt, có khác biệt bao la giữa dục và
dâm dục. Xã hội chúng ta sẽ chỉ được tự do khỏi con ma dục khi chúng ta phát
triển lòng dũng cảm để nói về dục theo một cách hợp lí và lành mạnh.
Chính là chỉ bằng
hiểu biết dục trong tất cả các khía cạnh của nó mà chúng ta sẽ có khả năng siêu
việt lên trên dục. Bạn không thể giải phóng bản thân mình khỏi vấn đề bằng việc
nhắm mắt với nó. Chỉ người điên mới nghĩ kẻ thù của mình sẽ tan biến nếu người
đó nhắm mắt lại. Đà điểu trong sa mạc nghĩ theo cách này. Đà điểu rúc đầu vào
trong cát và, vì nó không thể thấy kẻ thù, nên nó nghĩ kẻ thù không có đó. Loại
logic này còn dung thứ được trong trường hợp con đà điểu, nhưng với con người
điều đó không thể dung thứ được.
Liên quan tới dục
con người hành xử chẳng khá gì hơn đà điểu cả. Người đó nghĩ rằng bằng việc nhắm
mắt lại, bằng việc bỏ qua nó, dục sẽ biến mất. Nếu phép mầu như vậy có thể xuất
hiện, thì cuộc sống quả thực sẽ rất dễ dàng. Nhưng hỡi ôi, chẳng có gì biến đi
chỉ bởi việc kéo bức mành xuống. Trái lại, đây là bằng chứng rằng chúng ta sợ dục,
rằng hấp dẫn của nó còn mạnh hơn kháng cự của chúng ta. Bởi vì chúng ta cảm thấy
chúng ta không thể nào chinh phục được dục nên chúng ta nhắm mắt lại với nó.
Nhắm mắt lại là
dấu hiệu của yếu đuối, và toàn thể nhân loại mặc cảm về điều đó. Mà không chỉ
con người rành rành nhắm mắt với dục, người đó còn đi vào trong vô vàn xung đột
bên trong với nó. Kết quả tàn phá của cuộc chiến này với dục cũng được biết quá
rõ không cần kể ra ở đây. Chín mươi tám phần trăm bệnh tinh thần, bệnh thần
kinh, là do kìm nén dục. Chín mươi chín phần trăm phụ nữ chịu đựng chứng quá
kích động và những bệnh có liên quan đều chịu từ các rối loạn về dục. Lí do
chính của sợ hãi, hoài nghi, lo âu, căng thẳng và suy nhược trên con người
đương đại, là do sức ép của đam mê. Con người đã quay lưng lại với thôi thúc mạnh
mẽ và cố hữu. Không có nỗ lực để hiểu dục, chúng ta phải nhắm mắt với nó vì sợ
hãi. Và kết quả quả thực là thảm hoạ.
Để thấy chân lí
của điều này, con người chỉ cần duyệt qua văn chương của mình, tấm gương của
tâm trí mình. Nếu người từ mặt trăng hay từ sao Hoả mà có tới đây và xem qua
văn chương của chúng ta, có đọc sách của chúng ta và thơ của chúng ta, có xem
tranh vẽ của chúng ta, người đó sẽ ngạc nhiên. Người đó sẽ tự hỏi tại sao tất cả
mọi nghệ thuật và văn chương của chúng ta lại đặt trọng tâm vào quanh dục.
“Tại sao tất cả
những thơ ca, tiểu thuyết, tạp chí và câu chuyện của con người lại bão hoà với
dục thế? Tại sao có đàn bà bán khoả thân trên mọi trang bìa tạp chí? Tại sao mọi
phim đều có liên quan tới thèm khát dục?” người đó sẽ hỏi.
Người đó sẽ
phân vân. Vị khách vũ trụ này sẽ tự hỏi tại sao con người chẳng nghĩ gì khác
ngoài dục. Người đó sẽ thậm chí còn lẫn lộn hơn nữa nếu người đó gặp một người
và nói chuyện với người ấy, bởi vì người này sẽ cố gắng, sẽ cố gắng rất vất vả,
để gây ấn tượng cho người đó rằng người ấy hoàn toàn hồn nhiên về sự tồn tại của
dục. Người này sẽ nói về linh hồn, về Thượng đế, về thiên đường, về sự giải
thoát, nhưng người ấy sẽ không nói một lời về dục, mặc dầu toàn bộ con người
người ấy sẽ tràn đầy với những ý tưởng về dục. Vị khách vũ trụ sẽ bị sững sờ mà
biết rằng con người đã từng phát minh ra cả nghìn lẻ một phương sách để làm hài
lòng một ham muốn mà không một hơi thốt ra.
Tôn giáo hướng
cái chết của con người đã làm cho con người mang tâm trí dục. Và điều đó đã làm
hư hỏng người đó theo góc độ khác nữa. Nó chỉ cho người đó cái cực đỉnh vàng
son của vô dục, của brahmacharya, nhưng chẳng cho người đó hướng dẫn nào trong
việc có được chỗ đứng chân trên bậc thang thứ nhất, trong việc hiểu biết điều
cơ sở, trong hiểu biết dục.
Trước hết,
chúng ta phải thừa nhận dục và hiểu nó; chúng ta phải hiểu kĩ thôi thúc cơ bản
này. Chỉ thế thì chúng ta mới có thể cố gắng siêu việt lên nó, thăng hoa nó, để
cho chúng ta có thể đạt tới trạng thái vô dục. Không có hiểu biết sinh lực cơ sở
này trong tất cả mọi hình thái và khía cạnh của nó, thì tất cả mọi nỗ lực của
con người để kìm hãm và đè nén nó sẽ chỉ giúp cho người đó thoái hoá vào trong ốm
yếu và mất trí rời rạc. Nhưng chúng ta không tập trung vào bệnh tật cơ sở,
chúng ta phun lên tư tưởng cao về vô dục. Con người chưa bao giờ ốm yếu thế, thần
kinh thế, cùng quẫn thế hay bất hạnh thế. Con người đã hoàn toàn bị hư hỏng.
Người đó bị đầu độc tận gốc rễ.
Có lần tôi đi
qua một bệnh viện. Tôi đọc tấm biển, “Một người bị bọ cạp đốt đã được chữa trị ở
đây. Anh ta đã được chữa khỏi trong một ngày và được cho về.”
Một tấm biển nữa
viết là, “Một người bị rắn cắn. Anh ta đã được điều trị và đã về nhà, khoẻ mạnh
và tráng kiện, trong ba ngày.”
Tấm biển thứ ba
viết là, “Một người bị chó dại cắn. Anh ta đã được điều trị trong mười ngày qua
và sẽ bình phục ngay thôi.”
Thế rồi cũng có
tấm biển thứ tư. “Một người bị một người cắn,” nó nói, “Chuyện đã nhiều tuần
trước đây. Anh ta bất tỉnh và có một cơ hội mong manh cho việc phục hồi anh
ta.”
Tôi ngạc nhiên.
Cái cắn của con người lại có thể độc đến thế sao?
Nếu chúng ta có
tính quan sát, chúng ta sẽ thấy rằng nhiều chất độc đã tích luỹ trong con người.
Có lẽ đấy là vì ông bác sĩ lang băm của anh ta, nhưng lí do trước nhất là việc
anh ta từ chối chấp nhận cái là tự nhiên trong mình, anh ta từ chối chấp nhận
con người nền tảng của mình. Chúng ta đã cố gắng kiềm chế và vô hiệu hoá thôi
thúc bẩm sinh của mình một cách vô vọng; không nỗ lực nào được thực hiện để biến
đổi chúng, để nâng cao chúng. Chúng ta đã tự buộc mình kiểm soát năng lượng đó
theo cách sai lầm. Năng lượng đó đang sôi sục trong chúng ta giống như dung
nham nóng chảy; nó bao giờ cũng đẩy ra từ bên trong: nếu chúng ta không cẩn thận,
nó có thể lật đổ chúng ta vào bất kì khoảnh khắc nào. Và bạn có biết điều gì xảy
ra khi nó kiếm được lối mở nhỏ nhất không?
Tôi sẽ minh hoạ
bằng một thí dụ:
Một chiếc máy
bay gặp phải tai nạn. Bạn ở gần đó và bạn chạy xô tới để xem. Câu hỏi đầu tiên
tới trong tâm trí bạn khi bạn thấy một xác người trong đống vỡ vụn là gì?
“Người này là
người Hindu giáo hay Hồi giáo?” Không.
“Người này là
người Ấn Độ hay Trung quốc?” Không.
Trong một phần
giây, đầu tiên và trước nhất, bạn sẽ nhìn xem liệu cái xác đó là của đàn ông
hay đàn bà.
Bạn có nhận biết
tại sao câu hỏi này lại nảy ra trong tâm trí trước nhất không? Đấy là vì dục bị
kìm nén đấy. Chính do kìm nén về dục làm cho bạn ý thức thế về khác biệt giữa
đàn ông và đàn bà. Bạn có khả năng quên đi tên tuổi, khuôn mặt hay quốc tịch của
ai đó - nếu tôi đã gặp bạn, tôi có thể quên tên bạn, khuôn mặt bạn, tính tình bạn,
tuổi tác bạn, địa vị bạn, mọi thứ về bạn - nhưng bạn không bao giờ quên giới
tính của một người, bạn không bao giờ quên liệu ai đó là nam hay nữ. Bạn đã bao
giờ có bất kì hoài nghi nào rằng người bạn đã nói chuyện với, cứ giả sử, trên
chuyến tầu hoả đi Delhi năm ngoái, là đàn ông không?
Tại sao? Khi bạn
quên mất mọi thứ khác về một người, thì sao bạn không thể xoá đi cái khía cạnh
đó trong kí ức mình? Chính bởi vì nhận biết về giới tính đã bắt rễ vững chắc
trong tâm trí con người, trong quá trình suy nghĩ của người đó. Dục bao giờ
cũng hiện diện, bao giờ cũng tích cực.
Cả xã hội chúng
ta lẫn hành tinh chúng ta chưa bao giờ có thể được lành mạnh chừng nào bức màn
sắt này, khoảng cách này vẫn còn tồn tại giữa đàn ông và đàn bà. Con người
không thể nào an bình với bản thân mình chừng nào ngọn lửa cháy bỏng này vẫn
còn bùng lên bên trong người đó, chừng nào người đó vẫn còn ngồi chặt lên nó.
Người đó phải cố gắng kìm nén nó mọi khoảnh khắc trong mọi ngày. Ngọn lửa này
đang thiêu đốt chúng ta. Nó làm cháy sém chúng ta. Nhưng thậm chí như vậy,
chúng ta cũng không được chuẩn bị để đối diện với nó, không được chuẩn bị để
nhìn vào nó.
Ngọn lửa này là
gì?
Nó không phải
là kẻ thù, nó là người bạn. Bản chất của ngọn lửa này là gì?
Tôi muốn nói với
bạn rằng một khi bạn biết ngọn lửa này thì nó sẽ không còn là kẻ thù nữa, nó sẽ
trở thành người bạn. Nếu bạn hiểu ngọn lửa này, nó sẽ không thiêu đốt bạn. Nó sẽ
sưởi ấm gia đình bạn, nó sẽ nấu ăn cho bạn, và nó cũng sẽ trở thành người bạn đời
của bạn.
Điện đã chớp
loé lên trong bầu trời từ hàng triệu năm nay. Đôi khi nó giết chết người, nhưng
chẳng ai nghĩ rằng chính cùng năng lượng này một ngày nào đó sẽ làm quạt chạy
và sáng đèn trong nhà. Không ai có thể hình dung ra những khả năng này. Nhưng
ngày nay điện này đã trở thành bạn chúng ta. Làm sao? Nếu như chúng ta nhắm mắt
lại với nó, chúng ta sẽ không bao giờ thăm dò được bí mật của nó, chúng ta sẽ
không bao giờ sử dụng được nó; nó sẽ vẫn còn là kẻ thù của chúng ta, nó bao giờ
cũng sẽ là đối tượng của sợ hãi. Nhưng con người đã lấy thái độ thân thiện với
điện. Con người đem nó theo mình để hiểu nó, để biết nó, và dần dần, tình bạn
lâu dài đã phát triển. Nếu như điều đó không xảy ra, chúng ta sẽ khó mà có khả
năng quản lí ngày nay.
Dục ở bên trong
con người, dục tính người đó, thậm chí còn sống động hơn điện. Một nguyên tử vật
chất nhỏ bé tiêu huỷ toàn bộ một trăm nghìn người ở thành phố Hiroshima, nhưng
một nguyên tử của năng lượng con người cũng có thể tạo ra cuộc sống mới, con
người mới! Dục còn mạnh hơn bom nguyên tử. Bạn đã bao giờ nghĩ về những khả
năng vô hạn của lực này chưa, về cách thức chúng ta có thể biến đổi nó tốt hơn
cho nhân loại? Một cái phôi có thể trở thành một Gandhi, một Mahavira, một Phật,
một Christ. Một Einstein có thể tiến hoá ra từ nó; một Newton có thể biểu lộ
trong nó. Một nguyên tử nhỏ vô hạn của năng lượng dục có một người xuất chúng
như Gandhi biểu lộ trong nó!
Nhưng thậm chí
chúng ta không thiên về việc hiểu dục. Chúng ta phải tập trung lòng dũng cảm lớn
lao ngay cả vào việc nói về nó cho công luận. Loại nỗi sợ nào làm khó chịu
chúng ta, để cho chúng ta không được chuẩn bị hiểu cái lực sinh ra toàn bộ thế
giới này? Nỗi sợ này là gì? Tại sao dục làm chúng ta hoảng hốt thế?
Mọi người đều bị
choáng váng khi tôi nói về dục tại cuộc họp đầu tiên tháng trước ở Bombay. Tôi
đã nhận được nhiều bức thư phẫn nộ yêu cầu tôi đừng nói theo kiểu này, những bức
thư nói tôi không nên nói về chủ đề này chút nào. Tôi tự hỏi tại sao người ta lại
không nên thảo luận về chủ đề này? Khi thôi thúc này là đã có bẩm sinh trong
chúng ta, tại sao chúng ta không nên nói về nó? Chừng nào mà chúng ta còn chưa
có thể hiểu được hành vi của nó, chưa thể phân tích nó, làm sao chúng ta có thể
hi vọng nâng nó lên bình diện cao hơn? Bằng việc hiểu nó chúng ta có thể biến đổi
nó, chúng ta có thể chinh phục nó, chúng ta có thể chế ngự nó. Chừng nào điều
đó còn chưa xảy ra, chúng ta sẽ chết đi và chúng ta vẫn không thể có khả năng
giải phóng mình khỏi nắm giữ của dục.
Quan điểm của
tôi là ở chỗ những người cấm nói về dục là cùng một giuộc với những người đã đẩy
nhân loại vào vực thẳm dục. Những người sợ hãi về dục, và do đó đã tự thuyết phục
mình là vô tội về dục, là những người mất trí. Họ đồng loã làm cho toàn bộ thế
giới thành nhà thương điên khổng lồ.
Tôn giáo liên
quan tới việc biến đổi năng lượng của con người. Tôn giáo nhằm vào việc tích hợp
bản thể bên trong của con người - cả khát vọng trong trắng của mình và thôi
thúc cơ sở. Cũng đúng là tôn giáo nên hướng dẫn con người từ chỗ thấp hơn lên
chỗ cao hơn, từ bóng tối ra ánh sáng; đến cái thực từ cái không thực, đến cái
vĩnh hằng từ cái phù du.
Nhưng để tìm kiếm
đâu đó người ta phải biết điểm bắt đầu. Chúng ta phải bắt đầu từ nơi ta đang ở;
điều bắt buộc là chúng ta phải biết chỗ này trước hết. Và điều này còn quan trọng
vào lúc này hơn là chỗ chúng ta muốn tới. Trong hoàn cảnh này, dục là sự kiện,
là thực tại; dục là điểm bắt đầu. Nhưng Thượng đế thì sao? Thượng đế ở xa nơi
đây. Chúng ta có thể đạt tới chân lí của Thượng đế chỉ bằng việc hiểu biết điểm
bắt đầu của cuộc hành trình; ngoài ra chúng ta không thể nào di chuyển được một
tấc. Chúng ta sẽ bị lạc. Chúng ta sẽ cứ trên vòng quay ngựa gỗ, chẳng đi đâu cả.
Khi tôi nói với
bạn trong lần gặp gỡ đầu tiên của chúng ta, tôi có thể cảm giác thấy các bạn
không được chuẩn bị để đối diện với những thực tại của cuộc sống. Thế thì chúng
ta có thể làm gì thêm nữa, nếu có? Chúng ta có thể đạt tới điều gì? Thế thì tất
cả sự làm rùng beng này về Thượng đế và linh hồn chẳng có nghĩa gì cả. Nó tất cả
đều là trống rỗng sức thuyết phục; nó tất cả chỉ là lời nói giả dối.
Chỉ bằng cách
thu được tri thức thực về cái gì đó chúng ta mới có thể vươn lên trên nó. Trong
thực tế, tri thức là sự siêu việt. Và trước hết, một sự kiện phải được hiểu thấu
hoàn toàn: con người được sinh ra từ dục. Toàn bộ con người của người đó tồn tại
bởi vì việc thực hành dục. Con người tràn đầy với năng lượng dục. Năng lượng của
bản thân cuộc sống là năng lượng của dục.
Năng lượng dục
này là gì? Tại sao nó lại là sự rối loạn mạnh thế trong các kiếp sống chúng ta?
Tại sao nó lại lan tràn khắp toàn bộ con người chúng ta? Tại sao các kiếp sống
của chúng ta lại cứ xoay quanh nó, thậm chí cho tới cuối? Nguồn gốc của thôi
thúc này là gì?
Hiền nhân và
các nhà tiên tri đã hạ thấp dục trong hàng nghìn năm nay, nhưng con người vẫn
không bị thuyết phục. Với các hiền nhân họ đã thuyết giảng rằng chúng ta không
nên theo dục, rằng chúng ta nên xua đuổi tất cả những ý nghĩ về nó và tất cả mọi
ham muốn về nó để được thoát khỏi maya, thoát khỏi thế giới ảo vọng - ấy vậy mà
con người vẫn không có khả năng phá vỡ cái xiềng xích đó. Bạn không thể nào gạt
bỏ dục kiểu thế này; cách tiếp cận này là sai.
Bất kì khi nào
tôi gặp gái mãi dâm họ chẳng bao giờ nói về dục cả. Họ hỏi về linh hồn, và về
Thượng đế. Tôi cũng gặp nhiều thầy tu và nhà sư, và bất kì khi nào chúng tôi một
mình họ đều chẳng hỏi gì khác hơn dục. Tôi ngạc nhiên biết rằng các thầy tu,
người bao giờ cũng thuyết giảng chống dục, dường như bị nó làm cho say đắm. Họ
tò mò về nó và bị rối loạn vì nó; họ có phức cảm tinh thần này về nó, ấy vậy mà
họ cứ thuyết giáo về tôn giáo và về bản tính con vật trong con người. Và dục tự
nhiên thế.
Chúng ta đã
không muốn mà cũng không cố gắng để hiểu vấn đề này. Chúng ta chưa bao giờ đào
sâu vào trong nguyên do sao lại có hấp dẫn lớn thế tới dục.
Ai dạy bạn về dục?
Toàn thế giới đều
chống lại việc dạy về nó. Bố mẹ cảm thấy con cái không nên được phép biết về
nó, và các thầy giáo cũng đồng ý. Kinh sách nói cùng điều đó. Không có trường
phổ thông hay đại học nào dạy về chủ đề dục; mọi viện học đều cấm đoán tri thức
về nó. Nhưng trong thời thanh niên, thanh niên đều tìm thấy cho mình rằng toàn
bộ con người mình, prana của mình, tràn đầy với khát khao về dục. Thế thì sự thận
trọng của tuổi già thất bại. Và dục thắng.
Làm sao điều
này xảy ra? Chân lí và tình yêu đều được thuyết giảng, nhưng các giáo huấn
không đứng vững; chúng tỏ ra mỏng manh.
Dục bắt rễ chắc
chắn trong cốt lõi con người chúng ta, nhưng nó bỏ neo ở đâu? Đâu là trung tâm
của lực kéo tự nhiên này, của lực kéo này mạnh thế, sâu sắc thế? Có bí ẩn nằm ở
đó. Và cần phải nhận ra bí ẩn trước hết; chỉ thế thì chúng ta mới có thể vượt
qua nó được.
Về cơ bản, điều
chúng ta cảm thấy như là sự hấp dẫn đối với dục lại không phải là hấp dẫn về dục
chút nào.
Sau mọi hành động
cực thích, con người cảm thấy tiêu tán, trống rỗng, chán nản. Người đó lấy làm
tiếc, với dày vò của chứng ợ nóng. Người đó nghĩ tới việc tránh thực hành này
trong tương lai. Cho nên, cái gì là nguồn gốc của trạng thái này của tâm trí? Đấy
là vì ham muốn về cái gì đó khác, và không chỉ về sự hài lòng thể chất.
Con người thông
thường không thể đạt tới những chiều sâu của bản thể mình mà người đó đạt tới
trong việc hoàn thành tình dục. Trong quá trình thông thường của cuộc sống
mình, trong thường lệ hàng ngày của mình, con người có đủ loại kinh nghiệm -
người đó đi chợ, làm kinh doanh, kiếm sống - nhưng giao hợp để lộ ra cái sâu sắc
nhất của các kinh nghiệm cho người đó. Và kinh nghiệm này có những chiều tôn
giáo sâu xa: tại đó, con người vượt ra ngoài bản thân mình; tại đó, người đó
siêu việt lên bản thân mình.
Hai điều xảy ra
cho người đó trong những chiều sâu đó.
Thứ nhất, trong
giao hợp bản ngã biến mất. Vô ngã được tạo ra. Trong chốc lát, không có “tôi”;
trong chốc lát, người ta không nhớ tới bản thân mình. Bạn có biết rằng cái
“tôi” cũng tan biến hoàn toàn trong kinh nghiệm về tôn giáo, rằng trong tôn
giáo bản ngã cũng tan biến trong cái không không? Trong dục bản ngã cũng mờ đi.
Cực thích là một trạng thái của việc xoá cái ngã đi.
Điều thứ hai về
kinh nghiệm dục là ở chỗ thời gian được tháo ra trong chốc lát. Vô thời gian được
tạo ra. Như Jesus Christ đã nói về samadhi, “Sẽ không còn thời gian nữa.”
Trong cực
thích, cảm giác về thời gian là không tồn tại. Không có quá khứ, không tương
lai; chỉ có khoảnh khắc hiện tại. Hiện tại không phải là một phần của thời
gian; hiện tại là vĩnh hằng.
Đây là lí do thứ
hai mà con người háo hức thế về dục. Thèm muốn không phải về thân thể phụ nữ đối
với đàn ông hay ngược lại, đam mê là về cái gì đó khác: về vô ngã, về vô thời
gian.
Cực đỉnh dục
này chỉ kéo dài một khoảnh khắc, nhưng với khoảnh khắc ngắn ngủi này con người
mất đi một khối lượng năng lượng và sinh lực đáng kể và mất mát đó để lại xót
thương về sau. Trong một số loài vật, con đực chết ngay sau hành động giao cấu.
Một giống côn trùng đặc biệt ở châu Phi có thể thực hiện hành động này chỉ một
lần; năng lượng của nó suy sụp và nó qua đời trong chính bản thân hành động đó.
Không phải là con người không nhận biết rằng giao hợp làm giảm đi sức mạnh của
mình, làm bớt đi năng lượng mình và đem cái chết tới gần hơn. Sau mỗi kinh nghiệm
người đó lại tiếc nuối đam mê, nhưng trong một khoảng thời gian ngắn người đó lại
cảm thấy đam mê trở lại. Chắc chắn là có nhiều ý nghĩa sâu sắc cho hình mẫu của
hành vi này hơn là con mắt gặp gỡ.
Có mức độ tinh
tế cho kinh nghiệm dục hơn cái thường lệ thể chất đơn thuần. Mức độ đó là tôn
giáo về bản chất. Để hiểu kinh nghiệm này bạn phải rất chú ý. Nếu bạn không thể
hiểu thấu ý nghĩa của kinh nghiệm này, bạn sẽ sống và chết chỉ trong mỗi mình dục.
Tia chớp loé
lên trong bóng tối của buổi đêm, nhưng bóng tối không phải là một phần của tia
chớp. Mối quan hệ duy nhất giữa hai điều này là ở chỗ tia chớp chỉ nổi bật ra
trong đêm, chỉ trong bóng tối. Và cũng điều đó đúng cho dục. Có sự hiểu rõ, niềm
hồ hởi, ánh sáng sáng lên trong dục, nhưng hiện tượng đó không phải từ bản thân
dục. Mặc dầu nó có liên quan tới dục, nó chỉ là sản phẩm phụ. Ánh sáng sáng lên
trong cực thích thì siêu việt lên trên dục; nó tới từ cõi bên kia. Nếu chúng ta
có thể hiểu rõ kinh nghiệm này về cõi bên kia chúng ta có thể vươn lên trên dục.
Ngoài ra, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể thế được.
Những người chống
đối dục một cách mù quáng sẽ chẳng bao giờ có khả năng đánh giá được hiện tượng
này trong đúng viễn cảnh của nó. Họ sẽ chẳng bao giờ có khả năng phân tích
nguyên nhân của ham muốn vô độ về dục, của sự thèm muốn sâu sắc này về dục. Điều
tôi muốn nhấn mạnh là ở chỗ sức kéo mạnh mẽ và luôn diễn ra này hướng tới dục
là để hiểu tạm thời về samadhi.
Bạn có thể giải
thoát bản thân mình khỏi dục nếu bạn có thể học cách đạt tới samadhi không cần
dục. Nếu một người muốn có một mặt hàng giá một nghìn ru pi mà được chỉ cho chỗ
người ta có thể có được mặt hàng đó cho không, thì người đó sẽ thành người bất
bình thường nếu người đó cứ ra chợ để mua nó đắt thế. Nếu một người có thể được
chỉ cho cách người đó có thể đạt tới cùng niềm cực lạc mà người đó tìm tới từ dục
bằng phương tiện khác nào đó và với mức độ lớn hơn nhiều, thì tâm trí người đó
sẽ tự động dừng việc xô đẩy về dục; tâm trí người đó sẽ bắt đầu chạy đua theo
hướng khác.
Con người có hiểu
biết đầu tiên về samadhi trong kinh nghiệm dục. Nhưng dục là chuyện đắt đỏ, thực
sự là chuyện rất đắt đỏ. Mà nó cũng không kéo dài lâu hơn một khoảnh khắc; sau
cực đỉnh tạm thời, chúng ta lại trở về với vị trí gốc. Trong một giây, chúng ta
đạt tới bình diện khác của sự tồn tại; trong một giây, chúng ta trèo lên đỉnh của
sự thoả mãn mênh mông. Cái đà này hướng tới cực đỉnh, nhưng chúng ta đã khó mà
tiến lên một bước khi chúng ta rơi trở lại cơ sở ban đầu. Một con sóng mong mỏi
đạt tới bầu trời, nhưng nó khó mà vươn lên có thể thấy được khi nó đã bắt đầu
rơi xuống. Chúng ta cũng thế. Chính là vì cực lạc đó, niềm vui đó, hiểu biết
đó, mà chúng ta tích luỹ năng lượng từng lúc một và rồi lại bắt đầu đi lên.
Chúng ta gần như chạm tới bình diện tinh tế hơn đó, cõi giới cao hơn đó, nhưng
lần nữa chúng ta rơi trở lại vào vị trí gốc của mình, giảm đi một khối lượng
năng lượng và sức mạnh đáng kể.
Chừng nào tâm
trí con người vẫn còn chìm ngập trong dòng sông dục này thì người đó sẽ vẫn cứ
lặp lại việc dâng lên và rơi xuống mãi. Cuộc sống là lực đẩy liên tục hướng tới
vô ngã, hướng tới vô thời gian - dù có ý thức hay vô ý thức. Ham muốn mãnh liệt
của con người là để biết cái ta thực của nó, để biết chân lí, để biết nguồn gốc
nguyên thuỷ, vĩnh hằng, vô thời gian - để hợp nhất với cái ở bên ngoài thời
gian, để đạt tới vô ngã thuần khiết. Chính là để thoả mãn ham muốn bên trong vô
ý thức này của linh hồn mà thế giới vẫn quay xung quanh cái trục về dục.
Nhưng làm sao
chúng ta có thể hiểu hay phát triển được bất kì loại quan hệ nào với hiểu biết
này nếu chúng ta tiếp tục phủ nhận sự tồn tại của hiện tượng tự nhiên, bên
trong và bao hàm tất cả. Khi chúng ta đối lập với dục dữ dội như chúng ta đang
làm, dục trở thành trung tâm của ý thức chúng ta: chúng ta không thể nào giải
phóng mình khỏi nó được; chúng ta trở thành bị xiềng xích vào nó. Luật hiệu quả
ngược phát huy tác dụng và chúng ta trở nên bị gắn với nó. Chúng ta cố gắng chạy
trốn khỏi dục, nhưng chúng ta càng cố gắng gạt bỏ bản thân mình khỏi nó, chúng
ta lại càng trở nên bị dính líu vào trong nó.
Một người ốm. Bệnh
của anh ta là ở chỗ anh ta cảm thấy rất đói, nhưng trong thực tế anh ta chẳng
có bệnh gì hết cả. Anh ta đã đọc thấy rằng phủ nhận cuộc sống là con đường tới
giải thoát. Anh ta đã đọc thấy rằng nhịn ăn là tôn giáo và rằng ăn là tội lỗi.
Anh ta cũng đã được bảo rằng ăn là bạo hành và mâu thuẫn với các giáo huấn về
không bạo hành.
Nhưng, anh ta
càng nghĩ về ăn là tội lỗi thì anh ta càng kìm nén cơn đói của mình. Và cơn đói
tự khẳng định nó theo mức độ tương đương. Anh ta quen nhịn ăn ba hay bốn ngày
và thế rồi, ngày tiếp đó, anh ta sẽ ăn bất kì cái gì và mọi thứ, giống như kẻ
háu ăn. Sau khi ăn anh ta cảm thấy tiếc vì việc nuốt lời nguyền - thêm nữa, ăn
nhiều quá có phản ứng riêng của nó - và thế rồi, có một mình, anh ta sẽ có một
đợt nhịn ăn khác. Và lại thế, sau đó, anh ta sẽ ăn trong một thời gian.
Cuối cùng anh
ta quyết định không thể nào cứ theo con đường phải trong khi anh ta sống ở nhà,
và do vậy anh ta từ bỏ thế giới, đi vào rừng, trèo lên núi và tìm thấy một cái
hang cô tịch. Người thân ở nhà đều buồn rầu, và vợ anh ta, cứ cho là anh ta phải
đã vượt qua được bệnh ăn của mình trong nơi ẩn dật, đã gửi cho anh ta một bó
hoa. Cô ấy chúc anh ta sớm bình phục và nhanh chóng trở về.
Người này đáp lại
với bức thư ngắn, “Cám ơn em lắm vì những đoá hoa. Chúng rất ngon.” Người này
đã ăn tất cả hoa. Chúng ta không thể nào hình dung ra được một người ăn hoa
thay vì ăn thức ăn, nhưng chúng ta đã không tiến hành sadhana cho việc nhịn ăn,
giống như người này đã làm. Tất nhiên, những người đã tận tình cho việc ăn quả
thực sẽ có khả năng hiểu được tình huống này rất rõ. Theo ít nhiều tỉ lệ tương
tự, mọi người đều có dính líu với dục.
Con người đã bắt
đầu cuộc chiến chống lại dục. Và kết quả của cuộc chiến này với dục thì khó xác
minh cho đúng.
Đồng dục có tồn
tại ở nơi nào ngoài cái gọi là xã hội văn minh của con người không? Thổ dân sống
trong những vùng lạc hậu không thể nào hình dung được đàn ông lại đi giao hợp với
đàn ông khác. Tôi đã ở với người bộ lạc, và khi tôi kể cho họ rằng dân tộc văn
minh thực hành điều này, họ lấy làm sửng sốt; họ không thể nào tin được điều
đó. Nhưng ở phương Tây có những câu lạc bộ đồng dục, và có những hiệp hội công
bố rằng sẽ là không dân chủ nếu cấm đoán việc đồng dục khi biết bao nhiêu người
đang thực hành điều đó. Họ tuyên bố rằng việc cấm đồng dục theo luật là việc vi
phạm quyền con người cơ bản, rằng đấy là trò lừa gạt của đa số lên thiểu số.
Tâm tính đã làm phát sinh ra hoạt động đồng dục là kết quả của cuộc chiến với dục.
Mãi dâm cũng tồn
tại theo tỉ lệ trực tiếp với văn minh hoá xã hội. Bạn đã bao giờ suy nghĩ về
cách thức các thể chế mãi dâm đi vào hiện hữu ngay chỗ đầu tiên chưa? Bạn có thể
tìm được gái mãi dâm trong vùng đồi núi của các dân bộ lạc không, trong những
nơi định cư xa xôi không? Không thể được. Những người này thậm chí không thể
nào hình dung ra được có những đàn bà bán đi trinh tiết của mình, người qua
giao hợp để được thù lao. Nhưng việc buôn bán trong dục này đã phát triển cùng
với tiến bộ của nền văn minh của con người. Đây chính là hành động ăn hoa đấy.
Và chúng ta sẽ vẫn còn ngạc nhiên hơn nữa nếu chúng ta tính đầy đủ tới tất cả
các suy đồi khác của dục, nếu chúng ta kiểm tra phạm vi đầy đủ của tất cả những
biểu lộ xấu xa của nó.
Điều gì đã xảy
ra cho con người? Ai chịu trách nhiệm cho cái xấu này và cái truỵ lạc này? Những
người đã dạy cho con người kìm nén dục thay vì hiểu biết nó là kẻ chịu trách
nhiệm. Bởi vì kìm nén này mà năng lượng dục của con người đang rỉ ra từ các lỗ
chân lông sai. Toàn bộ xã hội của con người bị ốm yếu và khổ, và nếu xã hội ung
nhọt này cần được thay đổi, điều bản chất cần chấp nhận là năng lượng dục là
thiêng liêng, rằng hấp dẫn về dục là tôn giáo về bản chất.
Tại sao hấp dẫn
dục này mạnh thế? Vì nó chắc chắn là mạnh rồi. Nếu chúng ta có thể hiểu thấu
các mức cơ sở của dục chúng ta có thể nâng con người lên khỏi dục. Chỉ thế thì
thế giới của Rama mới có thể nổi lên từ thế giới của Kama; chỉ thế thì thế giới
của từ bi mới có thể tiến hoá ra từ thế giới của đam mê này.
Cùng một nhóm bạn
bè, tôi đã tới Khajuraho để xem ngôi đền nổi tiếng thế giới ở đó. Bức tường bên
ngoài nhất, phần ngoại vi của ngôi đền, được trang trí bằng những cảnh dâm dục,
với nhiều tư thế giao hợp khác nhau. Có những bức điêu khắc về nhiều tư thế
khác nhau, tất cả đều trong động tác dục. Các bạn tôi hỏi tại sao những bức
điêu khắc này lại có đó, trang trí cho ngôi đền.
Tôi đã giải
thích cho họ rằng các kiến trúc sư đã xây dựng nên ngôi đền đó là những người
thông minh lắm. Họ biết rằng đam mê dục và dục tồn tại chỉ ở chu vi của cuộc sống,
và họ đã tin rằng những người vẫn còn bị bắt giữ trong dục thì không có quyền
đi vào trong đền.
Chúng tôi đã đi
vào. Bên trong, không có thần tượng nào của Thượng đế cả. Các bạn tôi rất ngạc
nhiên, chẳng thấy thần tượng nào ở đâu cả. Tôi đã giải thích cho họ rằng trên bức
tường bên ngoài của bản thân sự sống thì thèm khát dục và đam mê tồn tại, trong
khi ngôi đền của Thượng đế lại ở bên trong. Những người vẫn còn ca tụng đam mê,
dục, thì không thể nào đạt tới ngôi đền của Thượng đế ở bên trong; họ đơn giản
vẩn vơ ở bức tường bên ngoài.
Những người xây
dựng ngôi đền này là những người rất nhạy cảm. Đây là một trung tâm thiền - dâm
dục chỉ trên bề mặt, ở xung quanh; an bình và yên tĩnh ở cốt lõi, ở trung tâm.
Họ quen nói cho những người khao khát thiền về dục trước đã, suy ngẫm đầy đủ về
giao hợp được vẽ trên bức tường ngoài, và khi họ đã hiểu thật thấu đáo về dục
và đã chắc chắn tâm trí họ thoát ra khỏi nó, thì họ có thể đi vào bên trong. Chỉ
thế thì họ mới có thể đối diện với Thượng đế bên trong.
Nhưng nhân danh
tôn giáo chúng ta đã phá huỷ mọi khả năng về hiểu biết dục. Chúng ta đã tuyên
chiến với dục, với chính bản thân bản năng cơ bản của mình. Qui tắc chuẩn là
không nhìn vào dục chút nào, nhắm mắt bạn lại và xô vào đền Thượng đế một cách
mù quáng. Nhưng người nhắm mắt có thể đạt tới bất kì đâu không? Thậm chí nếu bạn
có đi vào bên trong, bạn cũng sẽ không có khả năng thấy Thượng đế bằng mắt nhắm.
Thay vì vậy, bạn sẽ chỉ thấy cái mà bạn chạy trốn nó!
Có lẽ một số
người cho rằng tôi là người tuyên truyền cho dục. Nếu vậy, xin bảo họ rằng họ
chưa nghe tôi gì cả. Trong những ngày này khó mà tìm ra được kẻ thù nào với dục
trên mặt đất này lại lớn hơn tôi. Nếu mọi người có thể chú ý tới điều tôi nói -
không thiên lệch - thì có thể giải thoát cho con người khỏi dục. Đây là quá
trình duy nhất làm cho nhân loại tốt hơn. Các học giả mà chúng ta coi là kẻ thù
của dục lại không phải là kẻ thù của nó chút nào, lại là người tuyên truyền về
nó. Họ đã tạo ra sự si mê quanh dục; đối lập dữ dội của họ đã tạo ra hấp dẫn
điên dại về dục.
Một người đã bảo
tôi anh ta chẳng quan tâm tới bất kì cái gì mà không bị phản đối, thách thức
hay phẫn nộ. Như tất cả chúng ta đều biết, quả ăn trộm bao giờ cũng ngọt hơn quả
mua tại chợ. Đó là lí do tại sao vợ mình lại không ngon lành như vợ hàng xóm có
vẻ vậy. Người khác giống như quả ăn trộm; người khác là thú vui bị cấm. Và
chúng ta đã gán cùng trạng thái đó cho dục. Nó rất cám dỗ. Nó đã được trao cho
tấm áo khoác mầu sắc của dối trá đến mức nó đã trở thành hấp dẫn mãnh liệt.
Bertrand Russell đã viết rằng trong thời nữ hoàng Victoria, khi ông ấy còn là đứa
trẻ con, đùi các bà chưa bao giờ được nhìn thấy ở chỗ công cộng. Quần áo họ mặc
dài quét đất, che kín hoàn toàn bàn chân. Nếu ngẫu nhiên mà ngón chân một bà
thò ra, đàn ông lập tức liếc mắt về nó; ông ta sẽ nẩy sinh đam mê.
Russell còn viết
thêm rằng phụ nữ ngày nay đi gần nửa người trần với đùi thấy được đầy đủ, nhưng
cũng lưu ý rằng điều đó chẳng ảnh hưởng tới mấy ai. Điều này chứng tỏ, ông ấy
viết, rằng chúng ta càng giấu giếm điều gì thì tò mò của chúng ta càng nẩy sinh
về nó.
Bước đầu tiên để
giải phóng thế giới khỏi dâm dục là cho phép con cái vẫn còn ở trần, nhiều nhất
có thể được, lúc ở nhà. Chừng nào mà điều đó là khả thi, người ta khuyên cho
phép con cái, cả con trai và con gái, chơi với nhau khi ở trần, để cho chúng trở
nên hoàn toàn quen thuộc với thân thể của nhau. Thế thì, ngày mai đây, với
chúng, sẽ không cần xích lại gần nhau trên phố. Thế thì sẽ không cần in ảnh khoả
thân vào sách vở. Thế thì chúng sẽ quen thuộc với thân thể nhau đến mức không
có loại hấp dẫn trái thói nào là có thể trong tương lai.
Nhưng cách thức
của cả thế giới là điều đối lập lại. Những người đã che phủ và che giấu thân thể
đã không chủ tâm tạo ra hấp dẫn lớn về nó đến mức, mặc dầu nó xảy đến bất thình
lình cho tâm trí chúng ta, chúng ta vẫn không cảm thấy toàn bộ tác động.
Con cái vẫn nên
ở trần và nên chơi đùa ở trần trong thời gian dài, cho nên không hạt mầm của
cái điên khùng nào vẫn còn để quấy rầy chúng trong phần còn lại của cuộc sống
chúng.
Nhưng bệnh tật
thì đã có đó rồi, và nó vẫn cứ tăng lên. Sự tồn tại của bệnh này có thể được
quan sát trong số lớn sách báo khiêu dâm bây giờ đang được xuất bản. Mọi người
đọc nó, che giấu nó giữa các trang bìa của Gita và Kinh thánh. Chúng ta hô hào
rằng các sách báo khiêu dâm đó cần phải bị cấm, nhưng chúng ta chưa bao giờ ngừng
lại để nghĩ những người đọc chúng xuất phát từ đâu; chúng ta phản đối việc
trưng bầy tranh ảnh khoả thân nhưng chưa bao giờ dừng lại để hỏi tại sao chúng
lại được phô bầy ở ngay chỗ đầu tiên.
Dục là tự
nhiên, nhưng dâm dục là sản phẩm của các giáo lí chống lại dục. Nếu các giáo lí
này được tuân theo, nếu lời khuyên được thuyết giảng trong các buổi lễ không
khoa học được chấp nhận, thì linh hồn của con người sẽ hoàn toàn bị chất đầy với
dâm dục. Điều đó gần như đã xảy ra. Nhưng, nhờ có Thượng đế, các ông thầy như vậy
lại không được thành công cho lắm. Và bởi vì thất bại của họ mà con người vẫn
còn có khả năng cứu vãn một phần của ý thức mình, một phần của óc suy xét của
mình. Nếu con người hiểu đúng dục thì người đó có thể vươn lên trên nó. Người
đó nên vươn lên trên nó; điều cần thiết là người đó vươn lên trên nó.
Tất cả mọi nỗ lực
của chúng ta cho tới nay đều sinh ra kết quả sai bởi vì chúng ta đã không thân
thiện với dục mà đã tuyên chiến với nó; chúng ta đã dùng việc kìm nén và thiếu
hiểu biết về cách giải quyết với vấn đề dục. Hiểu biết của con người càng sâu sắc
hơn thì người đó càng có thể vươn lên cao hơn trên dục; hiểu biết của người đó
càng kém thì các nỗ lực của người đó để kìm nén dục sẽ càng lớn. Và kết quả của
việc kìm nén chẳng bao giờ thành công cả, chẳng bao giờ mang lại niềm vui, chẳng
bao giờ lành mạnh cả.
Dục là năng lượng
đầy hứng thú nhất của con người, nhưng nó không nên là mục đích tự nó: dục nên
đưa con người tới linh hồn mình. Mục đích là từ thèm muốn dục tới ánh sáng.
Việc đạt tới vô
dục cần phải được hiểu. Biết dục là được tự do khỏi nó, siêu việt lên trên nó;
nhưng thậm chí sau cả cuộc đời kinh nghiệm dục, con người vẫn không có khả năng
phát hiện ra rằng giao hợp cho người đó kinh nghiệm thoáng qua về samadhi, một
cái lén nhìn vào tâm thức. Đó là sức hút lớn của dục; đó là sức cám dỗ lớn của
dục: nó là từ lực hấp dẫn của điều Tối thượng. Bạn phải biết và phải thiền về
thoáng nhìn tạm thời này; bạn phải tập trung vào nó với nhận biết. Nó hút mọi
người mạnh cực kì thế.
Có những cách
khác, dễ dàng hơn để đạt tới cũng cùng kinh nghiệm đó - thiền, yoga và cầu nguyện
là các phương án khác - nhưng chỉ kênh dục mới có ảnh hưởng mạnh mẽ lên con người.
Điều rất quan trọng là cần xem xét có nhiều cách thức để đạt tới cùng mục đích.
Một người bạn
đã viết cho tôi để nói rằng anh ta thấy chủ đề của tôi gây rất ngượng ngùng.
Anh ta yêu cầu tôi tưởng tượng cái thế khó xử của người mẹ ngồi trong đám khán
giả cùng cô gái mình; anh ta yêu cầu tôi nghĩ về người mẹ đang tham dự bài nói
của tôi, có cậu con trai đi cùng. Hơn nữa, anh ta khuyên tôi rằng những điều
như vậy không nên đưa ra thảo luận trước bất kì ai. Tôi đã đáp rằng phản đối của
anh ta là không có căn cứ và rằng anh ta phải đã mất bình tĩnh. Nếu người mẹ nhạy
cảm, bà ấy sẽ kể lại kinh nghiệm dục của mình với con gái vào đúng lúc, trước
khi cô gái trượt vào thế giới dục, trước khi cô ấy làm mất bản thân mình trong
cái chưa biết, theo cách chưa chín chắn. Nếu người bố nhạy cảm trong việc hoàn
thành trách nhiệm với người bạn tình của mình, người đó phải thảo luận tự do về
chủ đề này với con trai và con gái mình - để cảnh báo chúng cẩn thận với những
cạm bẫy thông thường và để cứu cuộc sống chúng khỏi sự lầm lạc có thể trong
tương lai.
Nhưng điều mỉa
mai của tình huống này là ở chỗ cả người bố lẫn người mẹ đều chẳng có kinh nghiệm
có ý thức, sâu sắc nào về vấn đề này cả. Bản thân họ đã không vươn lên trên mức
độ của dục vật lí, và do vậy họ sợ con mình có thể trở thành bị vướng mắc vào
cùng mức độ nữa. Nhưng, tôi hỏi bạn, có ai đã hướng dẫn cho bạn chưa? Bạn tự
mình đã bị vướng mắc. Và điều đó sẽ còn lặp lại trong các thế hệ thứ hai và thứ
ba và cứ thế mãi. Nhưng chẳng lẽ lại không thể nói cho con bạn biết, dạy dỗ
chúng, cho phép chúng được tự do nghĩ về bản thân chúng, rằng chúng có thể tự cứu
mình khỏi sự tiêu tán năng lượng của mình? Chúng có thể gìn giữ năng lượng của
mình. Và chúng có thể biến đổi nó.
Tất cả chúng ta
đều thấy than nhiều lần rồi. Các nhà khoa học nói rằng trong thời kì vài nghìn
năm than được biến đổi thành kim cương, và rằng không có khác biệt hoá học hay
cấu trúc nào giữa than và kim cương. Kim cương là cách biểu lộ đã được biến đổi
từ một mẩu than. Kim cương chỉ là than.
Tôi muốn bảo bạn
rằng dục là than, trong khi đó brahmacharya, vô dục, là kim cương. Vô dục là một
dạng của dục; vô dục là biến đổi của dục. Vô dục là than, nhưng sau khi nó đã
trải qua một quá trình nào đó. Và tin tôi đi, không có thù địch giữa hai cực
đoan đó. Không kẻ thù nào của dục có thể lại trở thành brahmacharya.
Tôi ngụ ý gì bởi
brahmacharya, bởi vô dục? Nó là charya của Brahma; nó là giao cảm với Thượng đế.
Nó là việc hiểu về kinh nghiệm thiêng liêng, về kinh nghiệm Thượng đế. Và, bằng
việc dùng hiểu biết có ý thức, có thể hướng năng lượng dục của người ta vào con
đường này, vào con đường tới Thượng đế.
Ngày mai, tôi dự
định nói với các bạn về cách kinh nghiệm kama, về sự thèm khát, có thể được làm
thăng hoa thành kinh nghiệm về Rama, về ánh sáng. Tôi muốn bạn lắng nghe một
cách chăm chú, để cho sẽ không có diễn giải sai. Và bất kì câu hỏi nào tới
trong tâm trí, xin hỏi chúng một cách trung thực. Gửi chúng cho tôi bằng cách
viết ra để cho tôi có thể nói với bạn về chúng một cách đơn giản và trực tiếp
trong vài ngày tới đây. Không cần phải che giấu bất kì câu hỏi nào nẩy sinh
trong tâm trí bạn; không có lí do gì để che giấu chân lí cả. Thật vô ích cố gắng
chạy trốn khỏi nó. Chân lí là chân lí dù chúng ta nhắm mắt với nó hay không. Chỉ
những người có lòng dũng cảm đối diện với chân lí mới là người tôn giáo. Những
người yếu đuối và hèn nhát, những người thậm chí không đủ tính chất đàn ông để
đối diện với các sự kiện của cuộc sống, thì chẳng bao giờ có thể được giúp đỡ để
trở thành có tính tôn giáo.
Những ngày tới
đây, tôi xin mời bạn xem xét chủ điểm của tôi. Đó là một chủ điểm mà các nhà
tiên tri và hiền nhân của bạn không thể nào được trông đợi nói tới. Và có lẽ bạn
không quen nghe nói về những bài nói như vậy. Tâm trí bạn có thể phản ứng trong
sợ hãi, nhưng tôi thuyết phục kiên nhẫn và lắng nghe một cách chăm chú. Hoàn
toàn có khả năng là việc hiểu về dục có thể dẫn bạn tới ngôi đền của linh hồn bạn.
Đó là ước muốn của tôi.
Cầu mong Thượng
đế hoàn thành cho ước muốn đó.
Xem tiếp Bài nói thứ ba – Quay về Mục lục